Năm 1964 Mỹ bắt đầu một cuộc chiến làm
thiệt mạng hai triệu người. Để rồi bây giờ chính Mỹ lại rao bán vũ khí cho Hà
Nội. Và các thân nhân của những nạn nhân của cuộc chiến phản đối: “Tôi có cảm
giác như con tôi chết hai lần”. Một người mẹ đã nói nhu thế trên truyền hình.
Quyết định của Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam nằm trong chiến lược kiềm chế Trung
Quốc.
Nguyên tác bài này có tựa đề "Le armi USA al Vietnam così la storia si ribalta" của Vittorio Zucconi, đặc phái viên của nhật báo "la Repubblica" ở Washington, ngày 18/08/2014.
Tháng 8 năm 1964, sau vụ tai nạn ở vịnh Bắc Bộ, Mỹ
đã bắt đầu mở cuộc chiến tranh tấn công Hà Nội. Hình ảnh lịch sử tăng tốc.
Tháng 8 năm 2014, Mỹ muốn trang bị quân sự cho Hà Nội mà Mỹ trước đó đã phải
trần ai đổ xương máu tiền của với lòng mong muốn đánh bại nó. Đúng nữa thế kỷ trôi qua và ít
nhất là hai triệu người đã thiệt mạn trong cuộc chiến. Tính bi hài của lịch sử
và các ích lợi nhất thời đã đang làm thay đổi kịch bản. Và người chết ... chết
hai lần.
Ngọn gió cứ liên tục vuốt nhẹ lên 58 ngàn 286 cái
tên được khắc vào phiến đá granit đen: the Wall, bức tường, bia đá tưởng niệm
những lính Mỹ đã ngã xuống trong “cuộc chiến tranh lần thứ hai ở Đông Dương”
như người ta vẫn thường nói. Trong những weekend cuối hè này gió vẫn hay làm lay
động những tờ giấy trắng và làm run rẩy những bàn tay của những đứa trẻ còn rất
bé hay những cụ đã rất già đang tìm cách “can-kê” lại tên của nội ngoại, của
chồng con, của người thân, của bè bạn đã ngã gục trong một cuộc chiến như bao
nhiêu cuộc chiến khác chỉ để nhằm ngăn chận tất cả mọi cuộc chiến.
The Wall
“Tôi có cảm giác như thằng George nhà tôi chết hai
lần”. Bà mẹ bát tuần của trung sĩ Maynardi đã tuyên bố như thế trên một đài
truyền hình địa phương.
“Thằng Lee tình nguyện sang Việt nam và hắn đã
chết ở Campuchia trên tay tôi trong khi còn ôm cả mớ ruột trong tay ... chỉ
vì hắn được lệnh phải tìm cách ngăn chận tuyến đường vận chuyển vũ khí của miền
Bắc vào cho Việt cộng trong Nam”. Một cựu chiến binh hồi tưởng lại như thế
trong khi ông ta đang “can-kê” tên của trung úy Lee Unger. “Và để bây giờ Obama
lại muốn tiếp tế vũ khí cho Hà Nội”. Và ông ta cười gượng: “Chính chúng ta,
trong đó có những người đã hy sinh, là những người đã tìm cách ngăn chận đường
mòn Hồ Chí Minh ... để rồi bây giờ cũng chính chúng ta đang muốn mở lại con
đường mòn ấy ... có điều là đổi hướng con đường”.
Những thương nhớ chua xót, những hối tiếc đau buồn, những
thù ghét chua cay của những người còn sống, cũng như sự im lặng của những người
đã chết, cũng không thể nào ngăn cản được những nước đi của “ván bài quốc tế”,
không thể nào đi ngược lại thực tế, đi ngược lại cái mà người ta vẫn gọi là
“Chính trị thực dụng”, trước một quốc gia trên dưới 100 triệu người vẫn còn
mang trên vai niềm tự hào cộng sản nhưng đồng thời cũng đã trở thành con bài
chủ chốt của bàn cờ “Risiko” Á Đông giữa Mỹ và Trung Quốc. Chuyến công du của
Tổng tư lệnh Quốc phòng Mỹ, tướng Martin Dempsey, sang Hà Nội, nơi mà trước kia
các pháo đài bay B52 đã trút lên đó 600 ngàn tấn bom, đã đánh dấu bước ngoặc từ
bình thường hóa quan hệ và “hòa giải” mà Bill Clinton đã tiến hành từ năm 1995
cho đến đề nghị hợp tác, gần như là một đồng minh quân sự trên thực tế, được chính
thức hóa xuyên qua quyết định xóa bỏ cấm vận về vũ khí sát thương cũng như khả
năng mà Mỹ có thể bán cho Việt Nam những đoàn hải thuyền nhỏ nhưng hiện đại để
bảo vệ lãnh hải.
Tất cả đều nằm trong chính sách kiềm chế Trung
Quốc, để lôi kéo Việt Nam ra khỏi quỹ đạo “bảo hộ” của Trung Quốc và, cùng với
Nhật, Philippines, và tận đến cái xứ xa xôi Úc Đại Lợi, nơi mà lần đầu tiên kể
từ sau Đệ II Thế chiến Thủy Quân Lục Chiến của Mỹ đã được gởi đến, để tạo ra
thế đối trọng và canh phòng chống lại chính sách bành trướng của một Bắc Kinh
đầy tham vọng.
Lịch sử vẫn thường hay để lại những vết tích đầy
mỉa mai cay đắng. Quyết định bán những đội hải thuyền nhỏ, nhưng được trang bị
vũ khí hiện đại tối đa, hiện đại hơn những chiếc tàu sắt từ thời Liên Xô mà
hải quân Việt Nam đang dùng để chơi trò “bịt mắt bắt dê” chống lại lực lượng
hải quân hùng hổ của Trung Quốc trên vùng biển Hoa Nam đang có tranh chấp, tức
là vùng biển đã xẩy ra vụ việc mà Mỹ đã vin vào đó như cái cớ để mở một cuộc
chiến giữa Mỹ và Việt Nam. Đó là vụ việc xẩy ra hồi tháng 8 năm 1964, chưa đến
một năm kể từ sau khi Tổng thống John F. Kenedy bị ám sát, vị Tổng thống trước
đó đã đang còn ngập ngừng lưỡng lự phân vân chưa biết có nên đổ quân vào cuộc
chiến nam-bắc ở Việt Nam hay không, thì ở ngay vịnh Bắc Bộ tàu khu trục Mỹ
“Maddox” tuyên bố là bị hải quân Bắc Việt Nam tấn công bằng ngư lôi. Sau đó thì
ai cũng biết đấy là một sự kiện ngụy tạo, hỏa mù sa mưa, nhưng nó cho phép
Lyndon Jhonson có được cái cớ để Quốc hội Mỹ phải bật đèn xanh mở màn cho các
hoạt động tấn công Việt Nam. Thật ra chỉ là một “tai nạn”, mà sau này thiên hạ
gán cho nó cái tục danh là “cuộc chiến hư ảo của những bóng ma”.
Nhưng ngược lại lần này thì phản ứng giận dữ của
Bắc Kinh chẳng “hư ảo” tí nào: Cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Trung Quốc,
tờ “Nhân Dân Nhật Báo”, đã lớn tiếng tố cáo Mỹ là .... đang ... “nước đục thả
câu” và muốn dựng lên một bức tường với các liên minh kình chống Trung Quốc
ngay trên biển Hoa Nam vốn được Trung Quốc coi như ao nhà của mình.
Trong ván cờ cực kỳ quan trọng, đối với các
tuyến đường vận tải hàng hải và với các tài nguyên thiên nhiên nằm dưới đáy
biển mà Trung
Quốc đã bắt đầu
muốn khai thác khi đem hạ đặt cái giàn khoan ngay trong
vùng biển thuộc lãnh hải của Việt
Nam, Hà Nội đang trở thành “la Regina”, "the Queen".
Việt Nam vốn có biên giới “liền núi liền sông” với
Trung Quốc mà vào những thập niên 80 hai bên đã nã đạn vào nhau một cách kịch
liệt. Về mặt trang bị vũ khí và phát triển kinh tế Việt Nam, dù rằng đang trên
đà phát triển, hiện nay vễn còn lệ thuộc rất nhiều vào anh láng giềng khổng lồ.
Thu nhập bình quân hàng năm của Việt Nam chỉ có 1900 đô-la, thấp hơn 18 lần so
với Ý.
Với căn cứ hải quân to lớn ở vịnh Cam Ranh, do
chính Mỹ xây dựng để phục vụ cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước đây, Việt Nam đang
nắm chìa khóa của tuyến đường biển mà hai phần ba tàu dầu khổng lồ trên thế
giới bắt buộc phải chạy ngang qua.
Việt Nam không thể ra mặt đối kháng Trung
Quốc, bởi vì dẫu sao đây cũng là
anh chàng láng giềng khổng lồ cùng ở một tầng trong chung cư Đông Nam Á.
Trung Quốc thì lúc nào cũng phải khăng khăng nắm chặt Việt
Nam, để Việt Nam không rơi vào vòng tay các đạo quân liên minh của Mỹ, nhưng Trung Quốc cũng không thể nào “trang bị tận răng” cho Việt Nam, bởi vì Trung Quốc cũng sợ ngày nào đó súng ống của
Trung Quốc lại được sử dụng để chống lại lợi ích của Trung Quốc.
Mỹ thì cần Việt
Nam, để kiềm chế chính sách bá quyền của
Trung Quốc trong khu vực Thái
Bình Dương, nhưng Mỹ cũng không thể nào ra mặt
thách thức Trung Quốc bởi vì Mỹ cũng cần Trung
Quốc, vốn là nhà cung cấp lao động rẽ tiền cho Mỹ và là chủ nợ
nhà nước của Mỹ.
Tóm lại là không con bạc nào trong canh bài “Great Game” ở Châu Á có thể cho phép mình đi những nước bài phiêu lưu có khả năng đe dọa các vị trí trọng yếu của mình và có thể làm nghẻn các
tuyến đường hàng hải vận chuyển dầu
khí.
Hôm nay trên Thái Bình Dương chẳng có sự kiện gì
cho phép người ta có thể liên tưởng đến những huyền thoại, những
nỗi hãi hùng, những
tính toán sai lầm, những lý thuyết kiểu “domino” mà một thời đã làm thiệt mạng hàng
triệu người Việt Nam, giữa Bắc và Nam,
và 58 ngàn thanh niên Mỹ.
Nhưng
ngược lại những tính toán thực dụng vô lương vẫn không hề thay đổi. Cũng như
chính Henry Kissinger đã diễn giải với câu nói để đời của Thủ
tướng Anh Lord Palmerston, khi ông này bị chất vấn về những quyết định bất nhất
của mình với những cú xoay chiều trở mặt trên các thế cờ chiến lược, “Chẳng có
bè bạn hay kẻ thù nào là vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”.
Trên bức tường thương tiếc ở Washington, và nằm ngay
bên kia bờ sông Potomac là những cây thánh giá rải đều trên đồi Arlington,
những ngọn gió thổi vù vù mang theo sự vô dụng của những cuộc thảm sát cùng với
sự chiến thắng chắc chắn của những lợi ích riêng tư.