30 tháng 11, 2015

Bộ tam Obama, Tập và Modi: vận mạng của quả địa cầu nằm trong tay của những tay gây ô nhiễm nhiều nhất trên thế giới.



Nguyên tác bài này có tên là “Obama, Xi e Modi: le sorti del pianeta nelle mani dei grandi inquinatori” của đặc phái viên Federico Rampini ở New York của nhật báo la Repubblica đăng ngày 30/11/2015.


Coi chừng ba tay đó. Hôm nay trong ngày khai mạc thượng đỉnh quốc tế về khí hậu COP21, ba “diễn viên” chính trên sân khấu là Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ với hai cuộc “gặp gỡ song phương”: cái thứ nhất là giữa Barack Obama với Tập Cận Bình, cái thứ hai là giữa Obama với Narendra Modi. Đó là những thành viên của một câu lạc bộ mới: “Câu lạc bộ của những tay gây ô nhiễm nhiều nhất trên địa cầu”. Tất cả những gì mà các tay này “nói chuyện” với nhau trong các cuộc gặp gỡ song phương sẽ là “cốt lõi” của cuộc họp thượng đỉnh lần này. Cuộc họp thượng đỉnh lần này coi như đã “xếp xó” các hiệp ước trước đây – vốn không mấy thành công – đã được ký ở Kyoto (1997) và ở Copenaghen (2009) theo đó thì các quốc gia chỉ bị ràng buộc về mặt “pháp lý” trong việc thải quá độ liều lượng thán khí CO2 so với các tiêu chuẩn mà cộng đồng quốc tế đã đặt ra. Quá khứ đã cho thấy là mục tiêu “pháp lý” nói trên đã không có tính khả thi. Chính vì thế mà bây giờ người ta đặt trọng tâm vào “quyết tâm chính trị”, xem đó như là phương hướng có tính chiến lược mà mỗi siêu cường sẽ phải quyết định áp dụng.


Barack Obama: Mỹ gây ô nhiễm ít hơn Trung Quốc, nhưng bình quân đầu người thì dân Mỹ vẫn còn là vô địch gây ô nhiễm.

Tập Cận Bình: chuyển đổi nền kinh tế là vấn đề hàng đầu và Tập không cần phải đợi sự đồng thuận của xã hội Trung Quốc.

Nerandra Modi: rất nhiều nhà ở Ấn Độ vẫn chưa có điện, và năng lượng rẽ nhất đối với Ấn Độ vẫn là nhiệt điện than đá.


Tương lai của nhân loại, của sự sống còn của quả địa cầu, tất cả đều đang nằm trong tay của bộ tam Obama-Tập-Modi. Trung Quốc hiện đang bị xem như là “vô địch” trong việc thải thán khí, thậm chí qua mặt cả Mỹ kể từ năm 2008 lúc Mỹ đang bị “thoái trào” vì cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khổng lồ lúc ấy. Ấn Độ thì “bám sát” Trung Quốc: theo các thống kê thì năm nay Ấn Độ đã qua mặt Trung Quốc về vận tốc tăng trưởng của GDP (tức là tỉ số phần trăm tăng GDP so với năm trước), và do đó mức độ tiêu thụ năng lượng của Ấn Độ cũng tăng theo. Trên thế giới, nếu không xếp toàn bộ Châu Âu như là một thực thể duy nhất thì Ấn Độ được xếp vào hàng thứ ba vô địch thải thán khí. Tuy nhiên, nói gì thì nói, Mỹ vẫn còn cầm cờ quán quân về tỉ số thán khí thải ra bình quân trên đầu người: một anh Mỹ mỗi năm thải ra lượng thán khí gấp ba lần so với một anh Trung Quốc và mười lần so với một anh Ấn Độ. Nhưng ở đây, cái lối tính toán đo lường như kể trên xem ra cũng đã quá … “lỗi thời”. Và do đó các đường lối chính trị dựa theo các tính toán ấy … cũng chẳng có một … hiệu quả nào cả. Vấn đề môi trường ô nhiễm là vấn đề chung của toàn quả địa cầu, của toàn nhân loại, nó ảnh hưởng đến các đại dương cũng như các vùng băng hà trên thế giới, nó tác động lên vấn đề nhiệt độ và bầu khí quyển, tức là toàn là những thứ … vượt ra ngoài khuông khổ biên giới quốc gia. Trong khi đó “người ta” vẫn cứ ngồi đo lường đong đếm CO2 dựa trên … địa bàn của từng nước. Chính đây là điểm bất cập làm cho mọi so sánh trở nên khập khiễng: 315 triệu dân Mỹ đòi “so bì” với 2 tỉ rưỡi người Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại …

Và trong bối cảnh “so bì” kể trên thì Châu Âu … bị hất ra bên lề. Cái lục địa già nua cằn cỗi này “chỉ” thải ra có 9%  thán khí. Con số phần trăm này cũng có thể làm cho người Châu Âu có một cảm giác “bất lực”, không có “trọng lượng” … trên ván bài quốc tế. Nhưng thực ra cái phần trăm “khiêm tốn” nói trên của Châu cũng chỉ là thành quả một “nhận thức sai lệch” do những ảo ảnh của các lăng kính tạo ra. Bởi vì cái con số 9% “khiêm tốn” lượng thán khí thải ra … là do nền kinh tế của Châu Âu đang trong giai đoạn trì trệ khủng hoảng, tương tự cũng như chuyện số lượng thải thán khí của Trung Quốc “qua mặt” Mỹ … chỉ vì nền kinh tế Mỹ đang hồi gặp “nạn”. Một ngày nào đó khi nền kinh tế sản xuất của Châu Âu vượt qua được cơn khủng hoảng – điều mà các thanh niên trẻ đang thất nghiệp ở Châu Âu mong đợi – thì chắc con số phần trăm thán khí của Châu Âu thải ra sẽ không “khiêm nhường” như hiện nay. Một yếu tố khác cũng gây “ngộ nhận” về con số thải thán khí “khiêm tốn” của Châu Âu là quá trình “phi công nghiệp hoá” (deindustrializzazione). Từ lâu Châu Âu đã bắt đầu di dời một số dây chuyền sản xuất hàng hoá công nghiệp vốn “ngốn” nhiều năng lượng và do đó cũng thải ra nhiều thán khí làm ô nhiễm môi trường Châu Âu. Nhưng chỉ có điều là mỗi khi người tiêu dùng Châu Âu mua một món hàng “made in China” (hoặc của Nam Hàn, của Bangladesh, của Việt Nam) là chính Châu Âu đang “đóng góp” thải thán khí gây ô nhiễm môi trường. Nói cách khác là Châu Âu giàu có và văn minh, và có ý thức về bảo vệ môi trường, đã “uỷ nhiệm” cho các nền kinh tế đang vươn lên tiếp tục thải thán khí và gây ô nhiễm.

Trở lại bộ tam Obama-Tập-Modi. Đây là một “tập thể” tích tụ tất cả cốt lõi thực sự của vấn đề, và cũng cho người ta thấy những khác biệt chia rẽ của các siêu cường trong vấn đề kiểm soát thán khí. Cái cung cách hành xử kiểu thù hằn ái quốc của Ngài Thủ tướng Ấn Độ Modi có thể làm cho người ta bực, nhưng chính nhờ đó mà Modi đang trở thành một thứ lãnh đạo của phía “Nam bán cầu”. Có thể người ta không ưa cái lối giải quyết chuyện ô nhiễm môi trường của Modi bằng những tính toán lời lãi kiểu kế toán: đưa cho ta bao nhiêu thì ta sẽ cho mi biết là ta có thể làm tới đâu. Vì đấy là vấn đề “chuyển dịch” từ Bắc bán cầu xuống Nam bán cầu 100 tỉ đô-la hứa hẹn cho các quốc gia đang vươn lên để tài trợ cho các dự án chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững (sviluppo sostenibile); đó là những quỹ tài trợ khiêm tốn, và cũng chỉ tài trợ một phần nhỏ nào đó thôi. Nhưng thực ra trên ván cờ Bắc-Nam này cũng đầy những ngờ vực đố kỵ lẫn nhau. Bao nhiêu phần tiền tài trợ sẽ được dùng để “xuất khẩu” các kỹ thuật công nghệ tiên tiến “made in USA”, “made in China” hoặc “made in Germany” ? Và rồi bao nhiêu phần tài trợ này sẽ rơi vào các túi tham nhũng hối lộ của tầng lớp lãnh đạo địa phương tham ăn háo uống ?

Nhưng ngoài những nghi ngờ đố kỵ nói trên, trong câu chuyện Bắc-Nam này có một điều mà không ai có thể phủ nhận được: đó là những tấm không ảnh chụp quả địa cầu về đêm từ các vệ tinh, trong đó cường độ của các ánh sáng đèn nhân tạo phản ảnh sự giàu có thịnh vượng. Chỗ nào thiên hạ sống sung túc thì ở đó ban đêm ánh đèn sáng hơn. Bên cạnh đó là những vùng đất rộng lớn hầu như chìm ngập trong bóng tối: đó là những vùng đất phần lớn nằm ở Phi Châu, và một phần khá lớn của tiểu lục địa Ấn Độ. Và chính những tấm không ảnh đó biện minh cho những đòi hỏi ái quốc cằn cộc của Modi. Về đêm có một ngọn đèn điện trong nhà là một quyền lợi bức thiết của tất cả nhân loại: một ngọn đèn để sinh hoạt, để trẻ con có thể học hành. Chỉ một ngọn đèn điện. Nhưng vấn đề là khi “một ngọn đèn điện” ấy trở thành yêu cầu của 1,2 tỉ con người. Và với con số đông như thế thì năng lượng rẽ nhất vẫn là than đá. Cái thứ năng lượng tồi tệ ô nhiễm nhất. (Và cũng là thứ năng lượng mà Trung Quốc đang báo tháo bán đổ các nhà máy nhiệt điện chạy than cho Việt Nam – chú thích thêm của người chuyển ngữ)

Trung Quốc thì cũng đã có được một bước tiến tới. Ngọn đèn điện thì hầu như ai cũng có, thậm chí cả tủ lạnh, tivi, máy giặt … và cả xe xe ô-tô. Nhưng cái giá phải trả là bầu không khí ô nhiễm đến độ không hít thở được, đến độ mà giới thượng tầng giàu có trong xã hội Trung Quốc đang tranh nhau mua nhà ở California, không phải chỉ để biểu lộ đẳng cấp của mình, mà đấy cũng là một thứ “bảo hiểm sức khoẻ” (ngoài việc “bảo hiểm của chìm của nổi” do tham nhũng mà có – chú thích thêm của người chuyển ngữ). Tất cả những yếu tố đó đã khiến Tập Cận Bình phải quyết định đưa vấn đề chuyển đổi mô hình kinh tế sản xuất thành vấn đề ưu tiên hàng đầu, chứ không phải là một sự nhượng bộ trước áp lực của các nước Tây phương. Nhưng so với Obama thì cái khác là Tập Cận Bình có thể đưa ra hàng loạt chính sách để chuyển đổi mô hình mà không cần phải có sự đồng thuận của xã hội hay của guồng máy nhà nước (Quốc hội chẳng hạn). Trong khi đó hiện nay trên thế giới không có nơi nào đang xẩy ra một chiến dịch hung hăng nhằm phủ nhận (negazione) vấn đề thay đổi khí hậu như của đảng Cộng Hoà ở Mỹ. Các tay tài trợ của đảng Cộng Hoà và các nhóm lợi ích của “năng lượng hoá thạch” (than đá, dầu hoả)  không chùng chân trước một trở lực nào cả. Trong nhiều thập niên qua tập đoàn dầu khí Exxon đã giả mạo tất cả những con số đánh giá khoa học của chính các nghiên cứu gia của tập đoàn, vốn trùng với các đánh giá của các nhà nghiên cứu trong các giới khoa học trên thế giới. Dĩ nhiên cũng có một “nền tư bản khác”, do Bill Gates cầm đầu, đang đưa nhiều nguồn lực để tài trợ cho các công trình nghiên cứu các dự án công trình chuyển đổi bền vững. Đấy là một khúc xích quan trọng, và vấn đề hiện nay của các công trình dự án về năng lượng tái tạo là các tài trợ nhà nước, dù rằng rất quan trọng, đang làm cho mức độ tiến bộ cần thiết của khoa học kỹ thuật chậm lại … chỉ để đợi cho đến khi các năng lượng tái tạo đó … có khả năng cạnh tranh kinh tế, và nhất là để đợi phải giải quyết vấn đề tich luỹ các năng lượng tái tạo không ô nhiễm này.

Liên Hiệp Quốc thì đánh giá rằng cuộc họp thượng đỉnh COP21 này ở Paris là … “hy vọng cuối cùng của nhân loại”. Điều chắc chắn đây là cơ hội để các lãnh đạo thế giới cho thấy đây là một cuộc thử thách chung của cả nhân loại, và ai vẫn còn nghĩ là có thể dồn đẩy những khó khăn cho người khác có nghĩa là đã không biết đầu tư lâu dài … thậm chí cũng không nghĩ đến ích lợi riêng tư của chính đất nước mình. 

Roma, 30/11/2015

chuyển ngữ

20 tháng 11, 2015

Phương trình ... một vế !!!



Thường đời hễ thấy ai hoạn nạn tai ương thì mọi người đỗ xô vào an ủi, động viên, bày tỏ đoàn kết. Điều này cũng đúng, rất đúng: một cử chỉ vừa mang tính nhân bản vừa văn minh. Mấy hôm nay cả ngày các mạng truyền thông không ngớt đưa tin cả thế giới xúm nhau an ủi động viên, tỏ tình đoàn kết với nhân dân Pháp vì những tai ương khủng bố mà Pháp đang phải hứng chịu. “Je suis parisien”. Đi đâu cũng thấy nhan nhãn khẩu hiệu như thế. Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Báo chí không ngớt đưa tin về những hành động tàn sát vô nhân đạo và không văn minh của bọn khủng bố Hồi giáo cực đoan, của cái đám gọi là “Nhà nước Hồi Giáo”, đó là những bọn chỉ muốn chống phá triệt tiêu cái gọi là “nền dân chủ” (ở đây mọi người điều ngầm hiểu là nền dân chủ Tây phương – chẳng ai nói công khai ra, nhưng chắc không phải ám chỉ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của mấy con rồng rắn Á Châu hay của tân Đế chế Nga).

Những điều vừa kể trên là rất đúng, rất văn minh, nhân bản. Nhưng nó chỉ có thể áp dụng cho những người dân bình thường, những người đích thực đang bị đe doạ bởi những hiểm hoạ khủng bố từ mấy thập niên trở lại đây. Và những đe doạ này xem ra ngày có chiều hướng “tăng tốc”. Trên trang web của tờ Internazionale có đăng một bài kê khai đầy đủ những cuộc khủng bổ xẩy ra ở Châu Âu từ 1995 đến nay – tức là trong hai thập niên chót – Una cronologia degli attacchi terroristici in Europa. Còn đối với những giới lãnh đạo nhà nước Tây phương … thì mọi chuyện có phần “khúc mắc” hơn. Khi các lãnh đạo Tây phương (Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng, các Chủ tịch của trăm thứ ban bệ của UE ….) bày tỏ sự đau xót, bức xúc trước những đau thương của người dân vô tội, căm giận lên án bọn “vô nhân vô nghĩa vô đạo” chỉ muốn chống phá lại những giá trị dân chủ …. thì các Ngài ấy chỉ mới nói đến vế hai. Còn cái vế một, cái đã làm sinh sản ra những cái quái thai Hồi giáo cực đoan … thì không thấy các Ngài nói đến. Báo chí truyền thông phần lớn chịu áp lực của lãnh đạo Tây phương … cũng im lặng. Cứ như là “tự trên trời rớt xuống” những quái thai nói trên, những con quái vật tự nhiên xuất hiện rồi nhào sang đòi san bằng cả một nền dân chủ ngàn năm của Châu Âu.

Có nhiều chuyện kể ra … cứ như chuyện … khó tin mà có thật, thứ chuyện phong thần.

Một trái hoả tiển, một khẩu súng, một băng đạn, tất cả những thứ đó … đâu phải “rẽ như bèo”, cũng toàn là tiền không đấy chứ. Muốn trang bị cho những đám võ trang đi đánh phá chiếm cứ các khu vực chung quanh các quốc gia như Iraq, Siria, Libia …. Thì cũng cần có tiền, chứ đâu phải tự dưng mà chúng nó có vũ khí. Rồi cái Nhà nước Hồi giáo cũng phải trả lương cho những “nhân viên” làm việc cho chúng, thậm chí … nghe nói là cái Nhà nước Hồi giáo này cũng có đầy đủ các ban bệ Bộ này Vụ nọ … cứ như là một cơ chế nhà nước thật sự … Thì cũng cần có tiền chứ … Để làm ra tiền, cái Nhà nước Hồi giáo này “kinh doanh đủ thứ”: từ buôn lậu ma tuý đến bắt cóc để đòi tiền chuộc, từ việc tổ chức các tuyến thuyền nhân vượt biển đến việc buôn bán nô lệ …  Nhưng cái “khâu” đẻ ra tiền nhiều nhất cho cái Nhà nước Hồi giáo này là …. buôn bán chợ đen dầu hoả. Vì trong một số khu vực mà cái Nhà nước Hồi Giáo đã chiếm lấy của Iraq, của Siria, của Libia … có các giếng dầu hoả. Theo tin một số báo chí thì các giếng dầu hoả đem về cho cái Nhà nước Hồi giáo mỗi tháng khoảng 50 triệu đô-la (http://www.ilfattoquotidiano.it/2015/11/17/attentati-parigi-lisis-e-la-risorsa-strategica-del-petrolio/2226943/). 50 triệu đô-la là ít đấy, bởi vì dầu hoả đang xuống giá, và Nhà nước Hồi giáo cũng phải bán chợ đen với giá thấp hơn giá thị trường. Người ta kể rằng mỗi ngày có cả hàng đoàn xe tải dầu sắp hàng cả mấy cây số để lấy dầu hoả đem đi “phân phối chợ đen”. Không thấy báo nào nói “ai” mua dầu hoả chợ đen của Nhà nước Hồi giáo. Nhưng chắc chắn không phải dầu hoả chợ đen là để bán cho các đám băng đảng Hồi giáo cực đoan … Một số “tin đồn” thì nói là các xe tải dầu này chạy đến các nhà máy lọc dầu nằm ngoài “lãnh thổ” của Nhà nước Hòi giáo, rồi dầu hoả này được bán chợ đen và được pha chung với dầu hoả “minh bạch” của các nhà máy lọc dầu … không do Nhà nước Hồi giáo kiểm soát … rồi dầu hoả đó sẽ được bán công khai theo giá thị trường cho … toàn thế giới. Lãi cao hơn, vì dầu hoả mua chợ đen của Nhà nước Hồi giáo thấp hơn dầu hoả trên thị trường.

Chịu thôi. Business là business. Chứ thử hỏi có khó gì mà không oanh tạc mấy cây số xe tải dầu mỗi ngày sắp hàng ở các giếng dầu do Nhà nước Hồi giáo kiểm soát ? Kỹ thuật quốc phòng của các nước Tây phương … nghe nói còn dội bom trúng những chiếc xe trá hình chở tên này tên kia … thì chẳng lẽ không thấy mấy cây số xe tải sắp hàng mỗi ngày ? Chuyện rất đơn giản. Nếu các chính phủ Tây phương “thực tâm” muốn triệt tiêu cái gọi là Nhà nước Hồi giáo … thì cũng chẳng cần phải oanh tạc mỗi ngày hàng trăm phi vụ … Chỉ cần dội bom chung quanh mấy cái giếng dầu … là chng ba tháng sau Nhà nước Hồi giáo …. “tự sụp đỗ” như chính cái Nhà nước Liên Xô đã tự sụp đỗ vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Nói chung, là chỉ cần “phong toả cấm vận” các tuyến buôn bán chợ đen dầu hoả … là giải quyết chuyện Nhà nước Hồi giáo …

Thế mà cả mấy năm nay chẳng chính phủ Tây phương nào làm chuyện này cả. Thay vào đó là các Ngài cứ “tranh luận” là nên can thiệp từ trên không, từ mặt biển, hay đỗ quân lên đất liền … Kiểu lắm thầy thối ma … bệnh nhân ngày càng trầm trọng …

Nhưng thực ra thì vấn đề cũng không phải chỉ đơn giản ở chỗ “business là business” như kể trên (ở cái khoảng “business là business” thì chắc … anh Trung Quốc cũng … có phần trong đó, nhất là cái guồng máy kinh tế của Trung Quốc đang uống dầu hoả như anh nghiện rượu uống whisky thay nước lã).

Vấn đề còn tồi tệ hơn. Kể từ khi anh Bush đem quân sang đánh cái thằng Sadam … để “giải phóng” Iraq … thì cái xứ Iraq hiện nay … gần như không còn hiện hữu. Cái gọi là nhà nước Iraq thực ra chỉ là một thứ bù nhìn, chỉ cần Mỹ cúp viện trợ là trong vòng 24 tiếng đồng hồ là Iraq bị xoá xổ (xem ra cũng y hệt như cái chính quyền miền Nam của các tướng lãnh “trẻ” do Mỹ dựng lên thời nẫm). Cái xứ Siria thì sau 5-6 năm nội chiến, hiện nay nhà nước Siria cũng không biết còn thọ bao lâu. Chỉ cần Mỹ và Nga “đồng ý” với nhau cho bật đèn là trong vòng 24 tiếng đồng hồ anh chàng Asad sẽ được cho đi làm “đại sứ lưu động” ngay như thời Nguyễn Khánh ở miền Nam. Nhà nước Libia thì sau “Mùa xuân Ả Rập” lật đỗ được chế độ Ghedafi .. thì xem ra vẫn chỉ là những nhóm băng đảng bộ lạc cầm quyền kiểu “sứ quân cắt cứ” … Tất cả những rối loạn nói trên … thực ra là cả một cuộc tranh hùng một mất một còn của hai phe phái sắc tộc Hồi giáo: phe Shias và phe Sunni. Iran (cựu Ba Tư) là quốc gia Ả Rập lớn nhất của sắc tộc Shias. Ả Rập Saudit là quốc gia lớn nhất của sắc tộc Sunni. Kể từ kia Iraq bị sụp đỗ và bị chia ra manh múng, rồi kế tiếp là khủng hoảng ở Libia và Siria, hai sắc tộc nói trên đang tìm cách lợi dụng bất ổn định trong khu vực để tìm  cách “vẽ lại” bản đồ địa chính trị trong khu vực có lợi cho phe sắc tộc của mình. Cái Nhà nước Hồi giáo thực ra chỉ là công cụ của các nước Ả Rập theo sắc tộc Shias, đứng đâu là Ả Rập Saudit – và ai cũng biết chính Ả Rập Saudir là “sponsor” của Nhà nước Hồi Giáo. Xuyên qua Nhà nước Hồi giáo, Ả Rập Saudit muốn kiềm chế Iran. Các nước Tây phương thì để kiềm chế Nhà nước Hồi giáo nên gần đây đã “làm hoà bắt tay” với Iran – vốn cho đến năm ngoái còn là thù địch của Tây phương và là mối đe doạ hạt nhân cho Tây phương.

Chẳng chính phủ Tây phương nào – và cả Nga cũng thế - dại dột đỗ quân lên đánh Nhà nước Hồi giáo. Họ đang đợi cho hai phe phái sắc tộc Shias và Sunni … tự “tiêu diệt” nhau …. Và trong khi đó, các nước Tây phương vẫn tiếp tục bán vũ khí cho đủ các bên: cho Ả Rập Saudit, cho Qata, cho Kuwai, cho Israel, và trong tương lai cho cả Iran … và tiếp tục mua dầu hoả chợ đen của Nhà nước Hồi giáo …

Và vẫn sẽ tiếp tục bày tỏ sự đau xót, bức xúc trước những đau thương của người dân vô tội, căm giận lên án bọn “vô nhân vô nghĩa vô đạo” chỉ muốn chống phá lại những giá trị dân chủ … bla bla !!!

Một phương trình phải có hai vế. Các lãnh đạo Tây phương chỉ nói có một vế. Cái vế mà người dân Tây phương phải chịu đựng … Còn cái vế kia ???

Roma, 20/11/2015

PS: Chắc chắn là từ đây cho đến năm 2016 Mỹ sẽ không có những quyết định can thiệp quân sự nào “ra hồn” ở Trung Đông. Obama muốn được đưa vào lịch sử như là vị Tổng Thống đã không “đưa linh Mỹ” đi đâu cả, thậm chí còn “đem được lính Mỹ” từ Iraq và Afganistan về nhà. Nhưng một số tài liệu từ Ngũ Giác Đài cho biết là các tướng Mỹ đang chuẩn bị các kế hoạch quân sự can thiệp từ năm 2016: vì sau Obama, bất cứ một Tổng thống nào, dù của Dân Chủ hay Cộng Hoà, sẽ không còn “bị ràng buộc lịch sử” như Obama … và các tướng tá Mỹ đang háo hức trong chờ  … cũng như các đám tài phiệt buôn bán vũ khi háo hức không kém. Và Trung Quốc cũng háo hức. Vì Trung Quốc chỉ muốn Mỹ “pivot” về lại Châu Âu, trả lại Biển Đông cho Trung Quốc !!!

11 tháng 10, 2015

Một bức ảnh lịch sử đầy cảm động … nhưng không có hậu !!!


Sau khi hiệp định Paris được ký kết ngày 27/01/1973 giữa nhà cầm quyền Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn, ngay sau đó các phi công tù nhân Mỹ (POWs) bắt đầu được trao trả về Hoa Thịnh Đốn.
 
Thời đó, một trong những bức ảnh nỗi tiếng cảm động tả cảnh “coming back” của các tù nhân Mỹ là bức ảnh dưới đây, chụp ngày 17/03/1973 tại một căn cứ không quân Mỹ ở California: Trung tá  Robert L. Stirm bước xuống máy bay và được toàn thể gia đình anh ta chạy đến đón mừng anh trở về nhà: ngay phía trước mặt Stirm là đứa con gái lớn Lorrie 15 tuổi, phía sau là cậu con trai Robert 14 tuổi, kế đến là cô con gái út Cynthia 11 tuổi, bà vợ Loretta và sau cùng là cậu con trai Roger 12 tuổi.



Phóng viên chụp ảnh là Sal Veder, ký giả ảnh của hảng thông tấn Associated Press (AP). Bức ảnh này sau đó đã thắng giải Pulitzer prize năm 1974 với tên "Burst of Joy".

Sau đây là tường thuật của Sal Veder hôm đó: hồi đó tôi làm việc cho AP, và cũng vì thế tôi đã có dịp chụp ảnh trong rất nhiều sự kiện quan trọng: từ trận động đất ở Alaska năm 1964 đến thảm hoả xảy ra ở các hầm mỏ than đá, từ các trận đấu quyền Anh hay những trận football cho đến những cuộc phóng phi thuyền vệ tinh vào không gian. Có lần vệ tinh “hạ cánh” xuống mặt biển Thái Bình Dương và được tàu sân bay đến vớt lên và tôi cũng đã có mặt trên tàu sân bay đó. Toàn là những sự kiện hào hứng, thích thú: người nhiếp ảnh chờ đợi, chuẩn bị … và sau đó anh ta chỉ có vài giây để chụp lấy những khoảnh khắc “lịch sử”.

Nhưng bên cạnh những sự kiện hào hứng thích thú như tôi vừa nói, cũng có những tình cảnh bi thảm. Trong đời nhiếp ảnh tôi đã có hai lần “đụng” đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bản thân tôi chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt những cuộc giao tranh. Thời đó chiến tranh Việt Nam là một trong những đề tài “hấp dẫn” của đám ký giả chúng tôi, khoảng giữa những thập niên 70 ai cũng hăng hái nhận lệnh đi đến Việt Nam

Tháng 3 năm 1973, tôi được lệnh bám sát căn cứ không quân Mỹ Travis trên bờ biển Thái Bình Dương, ở vùng California, vì lúc ấy hằng ngày có những chuyến máy bay chở các phi công tù nhân Mỹ được Hà Nội trao trả về cho Hoa Thịnh Đốn. Tôi là một trong hai ký giả nhiếp ảnh của AP. Máy bay lên xuống rườm rượp từ sáng đến chiều. Một trong hai đứa tôi phụ trách “phòng tối” dã chiến, còn người kia thì lo chụp ảnh. Thời đó không phải như bây giờ, phim hình chụp xong cần có phải có phòng tối làm bằng vải nhựa đen, và cần phải có rất nhiều nước và hoá chất để tráng phim và rọi ảnh.

Hôm đó “phòng tối dã chiến” được chúng tôi dựng ngay trong phòng vệ sinh của phụ nữ ở phi trường, và tôi được cắt phiên chụp ảnh. Có một khu vực tiếp tân nơi các máy bay taxi đáp xuống, ở đó các tù nhân Mỹ sẽ hội ngộ với gia đình. Các phóng viên, các ký giả nhiếp ảnh không được phép chạy lăng xăng, tất cả bọn chúng tôi được tập trung trên một khán đài gần đấy. Trên khán đài đầy nghẹt phóng viên, chừng độ đến 40 người, các ký giả nhiếp ảnh tranh nhau chụp ảnh.

Bỗng có một gia đình không biết từ đâu xuất hiện, họ bước xuống xe và chạy lao đến người quân nhân Mỹ, người tù binh POW đã ở năm năm trong trại giam của Hà Nội. Tôi liếc thấy họ, lập tức tôi quay về hướng đó và bắt đầu bấm máy ảnh lia lịa. Dù khoảnh cách rất xa giữa họ với chúng tôi, nhưng tôi cũng nhận ra những cảm xúc trên gương mặt của họ, qua những bộ điệu chạy nhảy như lao đến người quân nhân. Một cảm xúc to lớn lan truyền đến cả các đám phóng viên ký giả chúng tôi.
 
Trong khi những người thân trong gia đình hồ hởi lao đến thì người quân nhân, Trung tá Robert L Stirm có vẻ khắc kỷ, dáng điệu rất hình thức, thậm chí có vẻ căng thẳng, anh ta bước đến một cách đĩnh đạc, chậm chạp. Sau đó là cả gia đình đến ôm lấy anh ta.

Sáu tháng sau đó, chúng tôi mới biết là bà vợ của Trung tá Stirm trước đó đã làm đơn xin ly dị và cũng đã viết thư thông báo cho Stirm biết trước khi anh ta trở về Mỹ. Tôi không biết rõ lý do của quyết định ly dị. Tôi tự nghĩ, giá như nếu không có tin vợ xin ly dị trước đó thì chắc có lẽ Stirm sẽ có những thái độ khác hoàn toàn với thái độ hôm đó. Sau ngày hội ngộ với nhau, vài tuần sau đó hai người đã chính thức làm thủ tục xa nhau vĩnh viễn.

Hôm đó, ngoài tôi ra cũng còn có một ký giả nhiếp ảnh khác của tờ San Francisco Examiner, cũng chụp một bức ảnh tương tự, hai bức ảnh chẳng khác chi tiết bao nhiêu, nhưng sau đó người ta đã chọn tấm ảnh của tôi cho giải Pulitzer prize. Tôi xem như đó là một điều hoàn toàn do may mắn. Quả thật tôi rất bất ngờ khi hay tin tấm ảnh của tôi thắng giải, thậm chí tôi cũng đã không biết trước là AP đã đăng ký dự giải thi ảnh bằng tên của tôi.
Dĩ nhiên cuộc đời ký giả nhiếp ảnh của tôi không dừng lại ở đó. Tôi đã quay trở lại chụp ảnh với những sự kiện bình thường khác.

Roma, 11/10/2015
(viết theo bài trên trang báo mạng "The Guardian")




Cuộc khủng bố hôm qua ở Ankara và một số sự kiện chính trị ở Thổ Nhĩ Kỳ.



Hôm qua 10/10/2015, một cuộc mít-tinh đòi hoà bình ở Ankara, thủ đô của Thỗ Nhĩ Kỳ, đã bị khủng bố bằng hai quả bom tự sát khiến 95 người thiệt mạng và hơn 245 người bị thương. Đây là một cuộc khủng bố lớn nhất từ trước đến nay ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hai quả bom tự sát đã nổ ngay gần nhà ga trung ương của Ankara, ngay khi đoàn mít-tinh chuẩn bị tuần hành. Đây là một cuộc mít-tinh do các công đoàn và một số tổ chức phi chính phủ tổ chức, có sự tham gia của nhiều đảng phái chính trị đối lập với chính phủ hiện nay ở Thổ Nhĩ Kỳ (đọc là: đối lập với đảng của đương kim Tổng thống Thổ Recep Tayyip Erdoğan). Phần lớn những người tham gia mít-tinh là người gốc Kurd (Curdi) và ủng hộ hoặc cảm tình viên với đảng HDP (Halkların Demokratik Partisi – Đảng Dân Chủ Nhân Dân), một đảng chính trị cánh tả của người gốc Kurd, và là đảng đả giành chiến thắng chính trị lịch sử trong kỳ bầu cử Quốc hội Thổ hồi tháng 6 vừa qua và trở thành đảng đứng hàng thứ ba trong Quốc hội. 

 Bom tự sát nổ ngay phía sau lưng của hàng người đang mít-tinh

Ngay vào buổi chiều hôm qua, hàng vạn người đã xuống đường biểu tình ở Ankara và Istanbul để ủng hộ những nạn nhân của cuộc mít-tinh sáng hôm đó.

Có một vài sự kiện chính trị vây quanh vụ khủng bố nói trên:


1)     Ai là thủ phạm của cuộc khủng bố ?

Đây là câu hỏi lớn và cho bây giờ cũng chưa có một câu trả lời cụ thể. Chỉ biết là sau khi khủng bố nổ ra, đến nay vẫn chưa có một lực lượng hay đảng phái nào tuyên bố “cha đẻ” của cuộc đánh bom. “Bù lại” đang có rất nhiều giả thuyết và các phe phái trên chính trường Thổ Nhĩ Kỳ đang tố cáo lẫn nhau. Theo lời của Ahmet Davutoğl, Thủ tướng của chính phủ Thổ và là lãnh đạo của đảng AKP, (Adalet ve Kalkınma Partisi – Đảng vì Công Lý và Phát triển do Recep Tayyip Erdoğan sáng lập), đảng có đa số (nhưng không tuyệt đối để tự lập chính phủ), thì “rất có thể” thủ phạm của cuộc khủng bố là những thành phần nằm trong tổ chức PKK (Partîya Karkerén Kurdîstan – Đảng Lao Động Kurd), một đảng chính trị vũ trang đấu tranh đòi độc lập cho sắc tộc thiểu số Kurd ở Thổ, hoặc dính dáng đến các lực lượng của Nhà Nước Hồi Giáo ISIS, hoặc là của các tổ chức khủng bố cực tả. Nhưng phía lãnh đạo đảng HDP và những phong trào ủng hộ Kurd thì ngược lại lên án thủ phạm chính là “nhà nước chìm” (deep state), một từ vựng ở Thổ để ám chỉ các nhóm cực đoan của các tổ chức tình báo thường hợp tác chung với các lực lượng dân tộc cực đoan hữu khuynh và các nhóm Hồi giáo thánh chiến như ISIS. Đến nay chưa biết rõ ai là thủ phạm, và vì không có ai tuyên bố chính thức “cha đẻ” của cuộc đánh bom (và cũng rất có thể là sẽ không có ai đứng lên tuyên bố cả). Trong khi đó, dưới áp lực của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, mọi thông tin về chuyện đánh bom bị kiểm soát nghiêm ngặt, các mạng lưới xã hội trên Internet cũng bị “tường lửa”.

Sau khi bom nổ ...

2)     Chiến tranh với Kurd

Những người tuần hành mít-tinh hôm thứ bảy vừa qua xuống đường để chống lại những cuộc chạm súng bắn giết giữa cảnh sát và quân đội Thổ Nhĩ Kỳ với lực lượng PKK từ hồi tháng 7 đến nay. Những cuộc chạm súng nói trên đã làm gián đoạn cuộc đình chiến đã được hai bên ký kết từ năm 2013, một thoả thuận đình chiến đã chấm dứt một cuộc chiến tranh kéo dài gần ba thập niên giữa chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và PKK và đã gây tử vong cho hàng chục ngàn người. Những cuộc chạm súng đã bắt đầu xảy ra sau một cuộc tấn công ám sát hàng chục lãnh đạo Kurd ở Suruc, một thành phố ở phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ và nằm sát với biên giới với Syria. Đảng PKK đã tố cáo chính phủ Thổ đã “đồng loã” trong vụ tấn công và do đó đã giết ba người cảnh sát Thổ để trả thù. Thế là chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã đáp trả lại bằng những cuộc dội bom vào các căn cứ của PKK và những người “dân quân” của PKK đã bắt đầu tấn công cảnh sát và quân đội Thổ ở ngay trong các thành phố lớn.


3)     Kurd ? Họ là ai ?

Đó là một sắc tộc thiểu số có mặt rải rác ở Syria, Iraq, Iran và nhiều nhất là ở Thổ Nhĩ Kỳ nơi họ chiếm khoảng 20% dân số Thổ. Kurd là giống dân thường được gọi là “một dân tộc không có quốc gia trên thế giới”. Từ cả mấy thế kỷ nay, dân Kurd bị chia năm xẻ bảy sống rải rác ở khắp nơi trong khu vực Trung Đông. Bản thân sắc tộc Kurd này cũng chia ra làm nhiều phe phái chính trị và lực lượng vũ trang và cũng đôi khi cũng có “căng thẳng” giữa họ với nhau. Trong những năm gần đây, trong tình hình bất ổn định ở khu vực Trung Đông, những nhóm sắc tộc Kurd ở Iraq và ở Syria đã chiếm được nhiều vùng “tự trị”.

Về mặt chính trị thì hiện nay hai tổ chức chính trị lớn nhất của sắc tộc Kurd là đảng PKK, bị nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ xem như là một tổ chức “bất hợp pháp” và bị Châu Âu và Mỹ liệt kê vào danh sách các nhóm khủng bố, kế đến là đảng HDP. Đảng HDP đã có vai trò “trung gian” giữa các lực lượng vũ trang Kurd và chính phủ Thổ để tiến đến thoả hiệp ngưng bắn hồi năm 2013.


4)     Đảng HDP

Thổ Nhĩ Kỳ có một đạo luật bầu cử độc nhất vô nhị: mức độ phiếu tối thiểu để có thể được ngồi vào Quốc hội là 10%, mức độ cao nhất thế giới, (ở Ý chẳng hạn là 3%). Mục tiêu của chính phủ Thổ là nhằm loại bỏ các đảng phái Kurd ra khỏi Quốc hội. Nhưng hồi bầu cử tháng sáu vừa qua, đảng HDP là đảng Kurd đầu tiên “bước qua được ngưỡng của 10%” và trở thành đảng đứng hàng thứ ba trong Quốc hội Thổ. Nhưng điều quan trọng nhất là với sự có mặt của HDP, đảng AKP đã không có được đa số tuyệt đối ở Quốc hội như Erdoğan mong muốn, và do đó không lập được chính phủ, chính vì thế mà Erdoğan đã quyết định tuyên bố giải tán Quốc hội để bầu lại vào đầu tháng 11 sắp tới. Đảng HDP là một đảng tả “tận gốc rễ” (radicale), có quan hệ “bà con” với đảng Syriza của Tsipras ở Hy Lạp, và cũng sẽ có mặt tranh cử vào lần bầu cử Quốc hội “trước nhiệm kỳ” được tổ chức vào ngày 01/11/2015 sắp tới. Các cuộc thăm do ý kiến đến nay cho thấy là HPD sẽ có được 12-13%, ít hơn một chút so với kết quả hồi tháng sáu, tuy nhiên vẫn còn”thừa sức” để vượt qua ngưỡng cửa 10%.


5)     Bầu cử tháng sáu vừa qua.

Thắng cử vẻ vang của HDP hồi tháng sáu vừa qua cũng là một chiến bại tranh cử của đương kim Tổng thống Recep Tayyip Erdoğan, “cha đẻ” của đảng AKP, lớn nhất trong Quốc hội. Từ lâu nay Erdoğan ôm ấp giấc mơ thay đổi hiến pháp để Thổ Nhĩ Kỳ trở thành “Nhà nước Cộng hoà Tổng thống” giống như kiểu của Pháp (thực ra, theo một số ý kiến của các đảng đối lập, thì chủ đích của Erdoğan là trở thành Tổng thống “toàn trị” kiểu Vladimir Putin). Cho đến nay Erdoğan vẫn chưa có được đa số tuyệt đối trong Quốc hội để thông qua đề luật sửa đổi hiến pháp nói trên. Và tệ hơn nữa là hồi tháng sáu, với sự thắng cử của HDP, đảng của Erdoğan chỉ còn được đa số tương đối.


6)     Bầu cử tháng 11 sắp tới.

Theo nhận định của các giới phân tích chính trị thì hồi tháng 6, chính Erdoğan đã cố tình làm hỏng tất cả các nổ lực thương thuyết của Thủ tướng Davutoğlu để lập chính phủ. Mục tiêu của Erdoğan là phải nhanh chóng đi bầu lại với hy vọng là có được đa số tuyệt đối trong Quốc hội. Một số nhận định cho rằng chính Erdoğan đã cố tình làm gia tăng các căng thẳng quân sự với các lực lượng vũ trang Kurd để hút phiếu của các lực lượng dân tộc cực đoan hữu khunh để chiếm được đa số tuyệt đối trong Quốc hội.


7)     Thổ Nhĩ Kỳ và cuộc chiến tranh chống ISIS hiện nay.

Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia khá đặc biệt trong khu vực: là một quốc gia đa số theo Hồi giáo, nhưng nhà nước mang tính thế tục (laic), chưa là thành viên của UE, nhưng lại có mặt trong liên minh quân sự NATO. Lý do là vị trí địa lý đặc biệt của Thổ: eo biển Istanbul của Thổ là cửa ngỏ duy nhất để hải quân của Nga từ Hắc Hải có thể vào được biển Địa Trung Hải. Do đó cần phải đưa Thổ Nhĩ Kỳ vào liên minh NATO để kiểm soát được hoạt động ra vào biển Địa Trung Hải của Nga (Hy Lạp cũng trong tình hình tương tự). Nhưng từ lâu, dù rằng nằm trong liên minh NATO, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không có được tiếng nói quan trọng, và nhất là Thổ vẫn chưa được kết nạp vào Liên Hiệp Châu Âu (dù rằng Thổ đã đóng vai trò quan trong trong suốt thời chiến tranh lạnh). Nay trước thời cơ các “ván bài” Trung Đông đang có chuyển biến, Thổ Nhĩ Kỳ muốn nhân cơ hội này nâng cao trọng lượng của mình trong khu vực. Trước mắt là Thổ cần “áp lực” lên các nước Châu Âu, và áp lực hiện nay Thổ có trong tay là hàng triệu người di cư Syria đang nằm trên đất Thổ. Chỉ cần Thổ mở cửa biên giới là hàng triệu người Syria sẽ tràn sang các nước UE, qua ngỏ của Hung hay qua Hy Lạp. Nếu Châu Âu không muốn bị quá tải người nhập cư, thì cần phải có những “đánh đổi” với Thổ Nhĩ Kỳ trên các ván bài tương lai trong khu vực Trung Đông.

Thái độ ứng xử của Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến chống ISIS hiện nay (trên đất Syria) cũng có rất nhiều “bất cập”. 

Kể từ khi bắt đầu chiến tranh ở Syria hồi năm 2011, Thổ Nhĩ Kỳ đã hổ trợ cho nhiều nhóm phản loạn chống lại chính uyền Damasco, kể luôn cả những nhóm Hồi giáo cực đoan hoặc ít nhiều có dây nhợ với ISIS. Hổ trợ các lực lượng nói trên Thổ Nhĩ Kỳ nhắm đến hai mục tiêu: thứ nhất là tìm cách gây tổn hại cho chính quyền của Bashar al Assad, vốn xưa nay là thù địch lịch sử của Thổ; thứ hai là nhằm tìm cách ngăn chận sự phát triển của các lực lượng Kurd ở phía Bắc Syria, vốn cũng là “thù địch” của nhà cầm quyền Ankara, và đã nằm dưới quyền kiểm soát của PKK.

Tuy rằng Thổ nằm thuộc phe liên minh NATO chống lại ISIS, nhưng các chiến lược oanh tạc không quân của Thổ không phải lúc nào cũng có mục tiêu là ISIS: theo thông tin báo chí gần đây thì đã nhiều lần không quân của Thổ mượn danh nghĩa oanh tạc các căn cứ quân sự của ISIS nhưng trên thực tế là oanh tạc các căn cứ quân sự của lực lượng Kurd PKK. Trong khi đó, Mỹ xem những lực lượng vũ trang của Kurd là một thứ “lục quân” phe Mỹ (thay lính Mỹ) có mặt trên hiện trường ở Syria. Thực ra thì mục tiêu tối hậu của Erdoğan vẫn là nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang Kurd, do đó Erdoğan cũng không mấy “tận lực” chống lại hoàn toàn ISIS, vì Erdoğan cũng muốn nhờ tay ISIS tiêu diệt Kurd. Người ta gọi chính sách của Erdoğan là “bạn của đồng minh ta (tức là Kurd là "bạn" của đồng minh của Thổ là Mỹ) chưa hẳn là bạn của ta”.

Roma, 11/10/2015

7 tháng 10, 2015

To be or not to be ????


Nhân chuyện có “tin đồn” là chính phủ Ý, dưới áp lực của chính quyền Obama, có thể phải tham chiến bằng không quân trên lãnh thổ Iraq để chống lại các lực lượng IS.

Bài này được "phỏng dịch" từ bài "Bombardare sì o no ? In ogni caso è inutile" của Lucia Annunziata đăng trên báo mạng "l'Huffington Post" ngày 06/10/2015.

Nếu như các tướng tá quân đội trên thế giới hay nói: “Không thể nào thắng một cuộc chiến tranh chỉ bằng không quân”, và nếu cứ cho rằng 4 chiếc máy bay oanh tạc chỉ là một giọt nước trong lòng đại dương đầy vũ khí đang được xử dụng ở Trung Đông, và nếu người ta cẩn thận suy xét đầy đủ mọi khía cạnh của vấn đề, thì có thể nói thẳng ra rằng: kịch bản sử dụng các máy bay chiến đấu của Ý ở Iraq chắc chắn sẽ là một vấn đề quốc tế gay góc đầu tiên mà chính phủ Renzi sẽ phải đối phó. Cho dù là Renzi có quyết định tham chiến hay không.  Chưa chi mà các lực lượng phe phái chính trị đã bắt đầu tung hoả pháo khắp nơi. Chắc chắn là chính phủ sẽ phải đối phó với cả một “mặt trận” chống tham chiến, nhưng đồng lúc cũng khó mà chính phủ có thể từ chối “lời mời” tham chiến của một liên minh quân sự mà Ý vốn đã là thành viên (liên minh chống IS). Và nhất là trong thời gian gần đây chính Renzi đã lớn tiếng đòi hỏi “một vai trò quan trọng” (thậm chí “lãnh đạo”) trong các kế hoạch chính trị can thiệp quân sự ở Trung Đông.

 Phi cơ chiến đấu Tornado của không quân Ý

Những gì đang xẩy ra trong thời gian gần đây ở khu vực Trung Đông, qua lá bài “chống khủng bố IS”, đang  tạo ra những căng thẳng nguy hiểm hơn bất cứ lúc nào hết: căng thẳng giữa Nga và Mỹ cùng với các đồng minh. (Thậm chí có báo chí còn tuyên đoán rằng đây sẽ là bước đầu mở màn cho một cuộc chiến tranh lạnh mới).

Chỉ cần điểm qua những sự kiện: Putin đang bị cô lập trên sân khấu quốc tế kể từ khi có chiến tranh ở Ukraine và quyết định sát nhập Crimea, bị “hất” ra khỏi các cuộc họp thượng đỉnh (G8 ngày xưa bây giờ trở lại thành G7), và đang lần lần mất dần ảnh hưởng trên một số khu vực. Nhưng cũng chính Putin đã nhanh chóng kịp thời nhận ra sự “trống vắng” của các hoạt động can thiệp của chính sách đối ngoại Mỹ bởi vì Obama hầu như “dị ứng” với mọi khả năng tham chiến trực tiếp (đổ quân), đặc biệt là ở khu vực Trung Đông. (Obama đã tốn hai nhiệm kỳ để tìm cách rút quân đội Mỹ ra khỏi Afghanistan và Iraq, còn mấy tháng nữa là Obama “về hưu”, ông ta muốn được ghi vào lịch sử như một Tổng Thống đã giải quyết được tàn dư do Bush để lại, và không đem lính Mỹ đi nướng ở chỗ khác. Và cũng chính vì thế mà Obama có thái độ “lưỡng lự” như hiện nay ở Syria. Nhưng phía bên Bộ Quốc phòng Mỹ thừa biết là với Tổng thống mới, dù Dân Chủ hay Cộng Hoà, rất có thẻ là Mỹ sẽ mạnh tay can thiệp, chính vì thế mà Lầu Năm Góc đang lên chuẩn bị các kế hoạch quân sự cho tương lai). Và thế là Putin đã tận dụng thời cơ để “trám” vào “chỗ trống” của Mỹ. Về mặt công tác ngoại giao Putin đã ra sức ve vãn hàng loạt lãnh đạo trên thế giới, từ Thủ tướng Isreal đến Ý, từ các lãnh đạo Iran đến những lãnh đạo của các quốc gia “thù địch” với Iran như Ả Rập Saudit. Trong những cuộc gặp gỡ như thế, từ các nước Ả Rập đến các quốc gia Tây phương, Putin có gắng đưa ra một viễn ảnh trong đó ... Nga là một “đồng minh không thể thiếu” trong cuộc chiến chống lại khủng bố. Song song đó Nga đã tăng cường hoạt động quân sự ở cảng Tartus (Syria), vốn là căn cứ hải quân duy nhất mà Nga đang có ở Trung Đông, đưa con số lính Nga lên thành 2 ngàn người, và tăng cường phi cơ chiến đấu ở căn cứ quân sự Latakia.

Với bước đi táo bạo nói trên, chỉ trong vài ngày Nga đã cho Mỹ “đo ván”: chứng minh sự “bất lực” của Mỹ và đồng thời đưa Nga thoát ra khỏi sự cô lập quốc tế (trong cuộc gặp gỡ song phương giữa Putin và Obama bên lề cuộc họp Đại Hội Đồng LHQ hai bên đã bàn đến khả năng “hợp tác quân sự” để đối phó với chiến tranh ở Syria). Từ trước đến nay chính quyền Obama vẫn đeo đuổi chiến thuật ném bom ở Syria và ở Iraq, nhưng kết quả thì không mấy khả quan, chính những chuyên gia của các Uỷ ban Đối ngoại và Uỷ ban Quốc phòng của Quốc hội Mỹ đã khẳng định rằng Mỹ không có một chiến lược có khả năng ngăn chận làn sóng của lực lượng khủng bố IS. Thế là trước quyết định “leo thang” của Nga, Mỹ bắt buộc phải xem lại và tổ chức lại các hoạt động quân sự của nhóm “liên minh” trong khu vực.

Trừ phi Mỹ và Nga tìm ra được một thoả thuận để giải quyết vai trò của Assad, (thoả thuận mà cho đến giờ phút này xem ra không khả thi bởi vì chính vị trí vai trò của Assad đang là đầu dây mối nợ của những quyết định can thiệp của Tây phương vào cuộc chiến tranh ở Syria), còn hiện nay người ta chỉ thấy những sự kiện gây thêm căng thẳng giữa Washington và Mạc Tư Khoa.

 Putin và Obama

Trong bối cảnh căng thẳng kiểu “trâu bò (sắp) húc nhau” như thế … thì nổ ra khả năng tham chiến của các phi cơ chiến đấu của Ý. Hiện nay, vẫn trong kế hoạch liên minh hợp tác chống IS, Ý có 4 chiếc Tornado được đưa sang Kuwait, và thông thường các chiến đấu cơ này chỉ làm nhiệm vụ trinh sát và đánh dấu toạ độ những khu vực có sự hiện diện của quân IS (tức là không trực tiếp tham gia oanh tạc – và các thông tin do máy bay Ý thu thập sẽ được đưa cho phía không quân Mỹ sử dụng để ném bom). Và trong tình hình như thế (đã là thành viên của liên minh hợp tác quân sự) thì cũng khó cho chính phủ Ý từ chối “lời mời” của Mỹ tham gia trực tiếp oanh tạc trên địa bàn Iraq

Tham gia trực tiếp là một quyết định đúng hay sai ? Nhưng trước khi đánh giá đúng hay sai về mặt chính trị, còn có một câu hỏi rất cụ thể: những cuộc oanh tạc (nếu xảy ra) của 4 chiếc Tornado của Ý sẽ … làm thay đổi … cái gì đó trong cuộc chiến tranh chống IS hay không ? Dựa trên kinh nghiệm xưa nay đến từ các cuộc chiến tranh trước đây thì có thể nói là quyết định “can thiệp trực tiếp” của Ý vừa … trễ vừa … vô ích trên bình diện quân sự. Tất cả những cuộc oanh tạc cả năm nay ở Iraq cho thấy đó chỉ là những hoạt động “có tính phô trương lực lượng” nhiều hơn là để thay đổi chiến cục và để cứu vớt quân đội Iraq. Nếu nói đến Syria thì những hoạt động không kích lại càng thêm vô hiệu quả. Lý do là bởi sự phân tán mánh mung của các lực lượng vũ trang, cả bên phe chống chính quyền, lẫn bên phe thân chính phủ, lẫn bên phía Hồi giáo cực đoan, (chỉ nội bên phe chống chính phủ đã có hơn 40 giáo phái). Điều này cũng khiến việc oanh tạc cũng trở nên khó khăn và không đạt hiệu quả (cũng như dùng máy cắt cỏ để cắt những một vài đốm cỏ này nhưng vẫn giữ một vào đốm cỏ kia).

Ở Syria và Iraq người ta cũng khó biết ai chống ai và đâu là lằn ranh giữa các lực lượng. Hình ảnh Mỹ và đồng minh cùng với Nga chiến đấu bên cạnh mớ lực lượng vũ trang hổ đốn ở trên một địa bàn không có lằn ranh … thì chẳng khác nào như đi trên một bãi mìn. Và khả năng đụng chạm “rủi ro” không cố ý giữa các lực lượng Mỹ và đồng minh với lực lượng Nga …. là rất khả thi: chẳng hạng máy bay Mỹ “bắn lầm” máy bay Nga hay ngược lại, hoặc máy bay Nga “oanh tạc lầm” các lực lượng đồng minh của Mỹ….

Cách giải quyết vấn đề chiến tranh ở Syria nói riêng, vấn đề ổn định trong khu vực Trung Đông nói chung, dựa trên câu hỏi đơn giản “tham chiến” hay “không tham chiến” bằng không quân ….  cũng cho thấy ngay từ đầu sẽ thất bại.

Nếu muốn diệt IS thì chỉ còn có một trong hai cách:  hoặc trực tiếp tham chiến, với lực lượng quân sự ngay trên địa bàn (và với những cái giá chính trị sẽ phải trả); hoặc một giải pháp đàm phán hiệp thương … trong đó có cả Nga tham dự.

Roma, 06/10/2015
 phỏng dịch

6 tháng 10, 2015

Khi “thượng đế” liếm !!!



Bài này nguyên tác mang tên “La lezione cinese per Mr. Facebook (Bài học Trung Quốc dành cho Mr. Facebook) của Giampaolo Visetti đặc phái viên thường trú của “la Repubblica” ở Bắc Kinh, đăng trên tờ báo mạng “la Repubblica SERA” del 06/10/2015)




Chủ tịch Tập Cận Bình đã “tặng” cho người sáng lập mạng xã hội Facebook, anh chàng Mỹ Marc Zuckerberg một bài học “để đời”: cần phải biết phân biệt áp-phe làm ăn với tình yêu. Bài học diễn ra ngay ở Nhà Trắng, biểu tượng của nước Mỹ, trước mặt của Tổng thống Obama và của đệ nhất phu nhân Michelle cùng một số “thượng đế” có máu mặt trong làng doanh nghiệp Mỹ. Chuyện xảy ra nhân dịp Tập công du sang Mỹ (24-27/09/2015) và trong dịp đó Obama đã tổ chức chiêu đãi, và đã được “một vài người” có mặt hôm đó kể lại với báo chí. Câu chuyện “bài học” này hiện đang được truyền miệng khắp nơi và đang được chính quyền Bắc Kinh “tận dụng” để tuyên truyền “tính ưu việt của nền văn minh cổ Châu Á so với nền văn minh còn non nớt của nước cờ hoa”.

Sự tình câu chuyện là thế này: (những người kể lại với báo chí xin được dấu tên), khi bữa tiệc gần tàn thì Marc Zuckerberg đã đứng lên xin được phát biểu, và quay sang vị thượng khách, Marc cầu xin Tập “gợi ý” một cái tên Trung Quốc để đặt cho con gái mà vợ của Marc, một người đàn bà Trung Quốc mang tên Priscilla Chan, đang sắp sửa cho chào đời.

 Marc Zuckerberg và bà vợ Trung Quốc Priscilla Chan

Mister Facebook, 31 tuổi, nói được tiếng Quan thoại, nhắc lại những kỷ niệm khi ở Trung Quốc hắn ở nhờ nhà của những người họ hàng bên vợ, và hắn tuyên bố là rất lấy làm hảnh diện nếu Chủ tịch Tập tìm cho một cái tên Trung Quốc cho con gái của hắn. Tập Cận Bình cười một cách hơi lúng túng vị bị bất ngờ, nhưng câu trả lời của hắn cũng rất “bén”: “Không, hắn nói một cách lịch sự, đặt tên cho một người là chuyện rất quan trọng, đòi hỏi quá nhiều trách nhiệm nên không thể khơi khơi ứng khẩu được.” Những người kể chuyện nói là bàn tiệc ở Nhà Trắng lúc ấy, đầy mặt bá quan văn võ, chẳng hạn như “thượng đế” của Apple, của Microsoft, của Amazon …. bỗng dưng bị một sự im lặng ngột ngạt bao trùm. Chỉ mới có mấy phút trước đó, Chủ tịch của Facebook, với trong tay một tài sản có trị giá 9,4 tỉ đô-la, đã hồ hởi tuyên bố rằng … “hội kiến được với Tập Cận Bình là một “cái mốc quan trọng trong cuộc đời của tôi". (Marc dùng từ milestone – tảng đá ngàn năm).

Lời lẽ tu từ xu nịnh quá trớn của Marc Zuckerberg đối với Tập Cận Bình ... thực ra thì chỉ nhằm vuốt ve để (hy vọng) “tháo gỡ” những khó khăn trong áp phe của Facebook ở Trung Quốc. Kể từ năm 2009 mạng Facebook  bị “ngăn sông cấm chợ” ở Trung Quốc (bị tường lửa kiểm duyệt của Bắc Kinh chận) vì Facebook bị lên án là đã có những hành vi “ủng hộ” những cuộc chống đối chính quyền Trung Quốc trong cao trào của những cuộc nổi dậy ở các nước Ả Rập (mùa xuân Ả Rập). Và tình trạng “ngăn sông cấm chợ” hiện nay đã khiến Zuckerberg không “vói tới” được hơn 600 triệu “người tiêu dùng Facebook” (tức là mất hàng tỉ đô-la thu về từ các dịch vụ quảng cáo ăn theo).

Khi Tập nói “trách nhiệm” (trong câu trả lời với Marc), Tập đã muốn nhắn hai thông điệp đến vị “thượng đế” tuổi trẻ tài cao Mỹ: đời sống riêng tư cần phải được đặt trên luôn cả tiền bạc sang giàu, và không nên lợi dụng tình yêu để làm áp phe. Nhưng đồng lúc Tập cũng đã “tin tiễn” sang Tây phương rằng Trung Quốc lúc nào cũng vẫn muốn thực thi đứng đắn các luật lệ, dù đó là những luật lệ thiếu dân chủ, của nhà nước Trung Quốc.

Thế là cả bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đang ra rả “tụng” rằng việc đặt tên là chuyện quan trọng, cực kỳ quan trọng vì nó hàm chứa những yếu tố văn hoá văn chương, nó biểu tượng cho dòng dỏi của người đó (họ tên),và nó cũng có thể tác động một cách quyết định lên cuộc đời của người mang tên đó. Không bao giờ một người Trung Quốc dám đường đột hỏi một người khác gợi ý công khai tên để đặt cho con cái của mình.

Cử chỉ “mơn trớn vuốt ve” của anh chàng Zuckerberg, có thể xuất phát từ một mối “thiện cảm cá nhân” nào đó đới với Tập ... nhưng rồi trở thành “gậy ông đâp lưng ông” ... và có thể sẽ làm “thiệt hại” dăm ba tỉ đô-la cho Marc.

Bài học của Tập là: thứ nhất, đừng trộn lộn nhầm lẫn áp-phe với cuộc sống riêng tư; thứ hai là một sự thống trị (egemonia – tức ám chỉ Mỹ) sẽ không bao giờ tiêu diệt được một nền văn minh (ám chỉ Trung Quốc).

Bài học của Tập là nhắm vào “nền tư bản Mỹ”: nhưng Chủ tịch Đại Hán, khi cố tình làm nhục Facebook, biểu tượng của các mạng xã hội, cũng muốn “tin tiễn” tới những thành phần đang chỉ biết đến tiêu thụ (neo-consumismo) đang bắt đầu nở rộ ở Trung Quốc.

Roma 06/10/2015

 chuyển ngữ


 

24 tháng 9, 2015

Mãnh lực đồng tiền !!!



Các “thượng đế” của ngành công nghệ thông tin mạng đến “chầu Đại vương họTập”



Từ Apple cho đến Walt Disney, ba chục công ty với tổng số vốn bằng 3 ngàn tỉ đô-la đã có mặt tại Saettle nhân dịp chuyến công du nhà nước đầu tiên ở Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình: bởi vì mặc dù bầu không khí có những căng thẳng (Trung Quốc đã ngăn sông cấm chợ hàng loạt các web site của Google, Facebook, Twitter, Yahoo .. chẳng hạn, hay của báo chí Mỹ), những các công ty Mỹ vấn không thể nào phớt lờ thị trường Trung Quốc.

Nguyên tác bài này có tên “I padroni dela Rete alla corte di Xi” của Federico Rampini, đặc phái viên của nhật báo “la Repubblica” ở New York đăng ngày 24/09/2015 nhân chuyến công du cấp nhà nước của Tập Cận Bình sang Mỹ

*********

Tập Cận Bình đến Mỹ ngày thứ ba (22/09/2015) trên chiếc Boeing 747. chỉ một vài giờ sau khi nó hạ cánh ở Seattle, tập đoàn Boeing đã công bố hợp đồng bán 300 máy bay ... và mở một nhà máy ở Trung Quốc. Vã lại, một mình nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã chiếm tới 25% doanh thu của tập đoàn máy bay khổng lồ này. Nói thế để thấy cái “cốt lõi” của phương pháp hành xử của Tập”. Trong chuyến công du cấp nhà nước chính thức đầu tiên Mỹ, trong thời điểm Trung Quốc đang có khủng hoảng tài chính tăng trưởng bị trì trệ, rồi các cáo buộc của chủ nghĩa bành trướng quân sự, những chỉ trích về những hoạt động tấn công qua mạng (cyber-attacks) gián điệp công nghiệp, nhưng Chủ tịch Trung Quốc đã cho biết là sẽ không nhượng bộ. Thông điệp của Tập gởi đến các “thượng đế” của business Mỹ mang nội dung như một câu hỏi có tính đe doạ: quý vị nghĩ là quý vị có thể lờ được thị trường Trung Quốc hả ?

Nếu tảng núi không mò đến Maometto, thì Maometto đi đến tìm núi. Lần này thì các “thượng đế” của ngành công nghệ thông tin Mỹ phải “ồ ạt” kéo nhau đến chầu “Đại vương”. Tản núi đá khổng lồ Tập Cận Bình đã “triệu tập”, vâng, thư mời dùng thẳng từ “convocated” đến “chầu Đại Vương”. Đứa nào không đến thì coi như mệt. Làm sao dám lờ khi mà một “thượng đế” như Tim Cook (chủ tịch quản trị tập đoàn Apple) cũng đã hồ hởi xác nhận là giá cổ phần chứng khoán của Apple đã lên vùn vụt nhờ vào những thành công mà Apple đạt được  ở thị trường Trung Quốc, vẫn theo tuyên bố của Cook thì hiện nay con số iPhone bán ở Trung Quốc đã qua mặt thị trường ở Mỹ hay ở Châu Âu. Thế là cùng đồng hành với Cook, những “thượng đế” khác trong ngành công nghệ thông tin mạng cũng phải đi “hành hương”: tất cả là 30 chục công ty, với tổng số vốn là 3 ngàn tỉ đô-la. Thậm chí có cả sự hiện diện của chủ tịch hay đại chiện chủ tịch của các công ty “Old Economy” (những công ty không thuộc ngành công nghệ thông tin mạng)  như tập đoàn khổng lồ Walt Disney: tập đoàn này đang chuẩn bị khai trương một Disnayland ở Thượng Hải và đầu năm 2016, một dự án đầu tư với 5,5 tỉ đô-la. Rồi có cả Mary Barra, CEO của General Motor: đối với tập đoàn này thị trường Trung Quốc vẫn luôn là thị trường chiến lược cho dù hiện nay mức độ tiêu thụ của thị trường này có giảm. Rồi cũng có đủ mặt bá quan văn võ của vùng Seattle: từ Bill Gates (Microsoft) đến Jeff Bezos (Amazon), bởi vì Seattle này được coi như là một San Francisco ở phía Bắc, và “tổng hành dinh” của Boeing nằm ở đây.

Cuộc gặp gỡ giữa Tập Cận Bình và giới đại gia của Mỹ ở Seattle

Ai dám bảo là một “Đại vương chuyên quyền” không biết hài hước ? Trong buổi tiệc chiêu đãi chính thức, Tập đã nói đến chiến dịch chống tham nhũng hiện nay ở Trung Quốc bằng một cú mỉa mai: có ai đó đã hỏi có phải là những tội nhân tham nhũng bị bắt đi tù là những đối thủ chính trị của Tập trong nội bộ đảng, Tập trả lời: “Đây nào phải là phim House of Cards đâu”. Một câu nói đùa thâm thuý, bởi vì bộ phim truyền hình Mỹ nhiều tập nói trên  - giàn dựng trên những hư cấu về những âm mưu chính trị giữa Nhà Trắng và Quốc Hội – lại là một trong những bộ phim bị sao chép lậu nhiều nhất ở Trung Quốc.

Bầu không khí giữa tư bản Mỹ và chính quyền Bắc Kinh hiện nay không mấy gì êm ả. US-China Business Council, một kiểu hội đoàn chuyên trách về các quan hệ thương mãi tập hợp tất cả các tập đoàn siêu quốc gia của Mỹ có mặt ở Bắc Kinh và Thượng Hải, cho biết là dựa theo thống kê thì tình hình có vẻ xấu đi: khoảng 5 năm về trước có đến 58% lãnh đạo các tập đoàn này của Mỹ tuyên bố lạc quan. Hôm nay thì chỉ còn có 24% tuyên bố lạc quan về các business của họ ở Trung Quốc. Và cũng chẳng phải chỉ vì vận tốc phát triển kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại. Vấn đề là các công ty nước ngoài, chẳng riêng gì của Mỹ, đều bị chính phủ Bắc Kinh “chèn ép” để nhằm ưu đãi các thương nhân Trung Quốc hay các tập đoàn kinh tế nhà nước của Bắc Kinh. Các “thượng đế” của ngành thông tin mạng đều cảm thấy bị đe doạ. Trên thực tế các mạng như Google, Facebook, Twitter, Yahoo đều bị ngăn sông cấm chợ và không đến được với người sử dụng Trung Quốc, Các công ty công nghệ cao cũng vất vã. Chẳng hạn như công ty Qualcomm (ở California) bị phạt một tỉ đô-la. Công ty Microsoft thì bị chính phủ Bắc Kinh ép phải cập nhật miễn phí tất cả software, thậm chí cho cả những người sử dụng software lậu. Trong nhiều trường hợp, để biện hộ các chính sách ngăn sông cấm chợ này, chính quyền Bắc Kinh cũng biết lợi dụng những thông tin “rò rỉ” từ nhân vật Edward Snowden, cựu nhân viên của National Security Agency của Mỹ đã tiết lộ và tố cáo các công ty hi-tech của Mỹ đã đóng vai trò “con ngựa thành Troia” để làm các hoạt động gián điệp cho Mỹ. Chẳng hạn như tập đoàn khổng lồ Cisco ở Silicon Valley, vốn là tập đoàn chuyên về xây dựng hạ tầng cơ sở truyền thông cho mạng Internet: router và các tổng đài phân phối các mạng lưu thông Internet, thế mà gần đây doanh thu của Cisco trên thị trường Trung Quốc giảm đi 30% vì các hợp đồng rơi vào tay của tập đoàn Trung Quốc Huawei. Thông thường những thông tin do Snowden tiết lộ được Tập Cận Bình sử dụng để biện minh cho các quyết định ngăn cấm của Bắc Kinh dưới danh nghĩa “bảo vệ an ninh”: những sắc luật mới ép các tập đoàn của Silicon Valley phải “bật mí” với Bắc Kinh “code” của các phần mềm đã được đăng ký bảo vệ bản quyền, hoặc phải chấp nhận giới hạn các luồn thông tin ra khỏi Trung Quốc. Ngay cả đến các công ty Mỹ vốn đã phải trực tiếp chịu bị o ép hay phải hứng chịu những trừng phạt ở Trung Quốc cũng đành phải “ngậm bồ hòn” không dám từ chối lời mời của Tập đến dự buổi gặp gỡ ở Seattle. Trùm Internet của Trung Quốc, Lu Wei, đã hăm doạ thẳng rằng ai mà dám “cả gan” từ chối không có mặt sẽ bị “để ý”: diễn nôm ra là những Chủ tịch của tập đoàn nào mà không đến “chầu” “Đại vương họ Tập” sẽ trở thành “đối tượng chú ý đặc biệt” trong quá trình làm ăn ở Trung Quốc.

Về phía Mỹ chính Tổng Thống Obama cũng đã cảnh báo các “thượng đế”: trong một cuộc họp cao cấp với Business Roundtable (tương đương với tổ chức Confindustria của Ý), Tổng thống Obama đã tuyên bố: “Khi quí vị gặp khó khăn ở Trung Quốc và quý vị muốn được chúng toi giúp đỡ thì quí vị cũng phải “lòi mặt ra”. Quý vị không thể nào đến để bảo rằng quý vị bị o ép thế này thế kia, nhưng quý vị muốn dấu tên, quý vị không muốn “thiên hạ” biết chính quý vị đã đến để than thở với chúng tôi.” Đó là một hành động che dấu, mang tính đồng loã, dù rằng chỉ vì lo sợ bị trả thù.

Dù rằng hơi khó chịu, nhưng Obama cũng quyết định không gây khó khăn cho giới làm ăn Mỹ. Nhà Trằng đã quyết định dời tuyên bố về các biện pháp trừng phạt chống lại tội phạm “gián điệp xi-be” (cyber-spying) đến từ phía Trung Quốc: các biện pháp này đã được soạn thảo xong xuôi sẳn sàng rồi, và chính quyền Mỹ trước đây cũng dự tính là sẽ tuyên bố trước khi Tập Cận Bình sang Mỹ, nhưng rồi sau đó Nhà Trắng quyết định dời lại sau chuyến công du của Tập.

Mà nào chỉ có các “thượng đế” phải “ngậm bồ hòn” đâu. Trong chuyến “hành hương” sang đến Seattle để đi “chầu Đại vương” còn có đông đảo các Thống đốc của các tiểu bang Mỹ, từ tay cấp tiến Jerry Brown (California) đến tay Cộng hoà Rick Snyder (Michigan). Thống đốc nào cũng lâm le ngó đến các dự án đầu tư của Trung quốc vào bang của họ. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm nay, các công ty Trung Quốc đã đưa ra 88 kế hoạch đầu tư với trị giá là 6,5 tỉ đô-la, tăng 47% so với trị giá đầu tư hồi năm ngoái.

Tay Donald Trump (một Berlusconi phiên bản Mỹ), ứng cử viên trong cuộc bầu sơ bộ của đảng Cộng Hoà để đề cử ứng cử viên chính thức tranh cử vào Nhà Trắng năm tới, đã không tiếc lời mạ nhục Trung Quốc: “Trung Quốc đe doạ nền kinh tế của chúng ta. Hút máu của Mỹ”. Nhưng các đồng đảng của y  đang nắm quyền, từ bang South Carolina đến Ohio, đều nhất trí “ngậm bồ hòn”.

Và ngay chính cả Obama cũng vậy, khi mà vào ngày thứ sáu tới đây Obama phải đón tiếp chính thức Tập ở Nhà Trắng: hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc có rất nhiều căng thẳng: chính sách bành trướng của Trung Quốc trên biển Thái Bình Dương đụng chạm đến các đồng minh của Mỹ (Nhật, Phi); các cuộc tấn công-xibe vào các trạm Internet của chính quyền Mỹ, trong đó có cả cơ quan An ninh. Mà điều làm Obama lo nhất chính là sự suy yếu của cái đầu tàu kinh tế Trung Quốc, bởi vì dầu gì đi nữa thì Mỹ và nền kinh tế Trung Quốc cũng đã có nhều quan hệ “cộng sinh” (simbiosi) kể từ ¼ thế kỷ nay.

Do dó dù có thương có ghét, Obama cũng bị bắt buộc phải “ủng hộ” Tập, vì đó là nhân vật “đúng người đúng lúc” (the right man at the right time.).

24/09/2015
chuyển ngữ