Trước sự trống rỗng của đoạn cuối của “triều đại” Castro và sự tan nát của chủ nghĩa xã hội, Giáo hội được coi như
là “mạng lưới an toàn” duy nhất còn lại của những thành phần nghèo khó nhất
trong xã hội trong quá trình chuyển đổi ở Cuba.
Nguyên tác bài này có
tên “Il Papa e il Lider, tra Jorge e Fidel l’abbraccio di due rivoluzioni” của
đặc phái viên Vittorio Zucconi của nhật báo “la Repubblica” ở Washington đăng ngày 21/09/2015
*********
Giữa hai bàn tay của hai ông già, run rẩy xiết chặt nhau trong
khoảng 41 phút, như một lời từ biệt, là một cuộc cách mạng đang len lỏi luồn qua để thay thế một cuộc cách
mạng khác. Lịch sử Cuba của Fidel, hôm nay trên ngưỡng cửa cữu tuần
trong có vẻ như một thầy tu già dịu hiền hơn là một vị tướng nỗi loạn hào hùng trên những chiến khu đồi núi, đang chuyền
sang tay của Bergolio, một người Á Căn Đình giống như Che, nhưng có điều Bergolio
không nắm một tấc vũ khí. Tất cả
những bí mật của sự kiện “chuyển đổi” nói trên nằm trong một cuộc gặp gỡ riêng
tư sau một buỗi lễ ban phước lành cho 500 ngàn người vốn đang hy vọng vào một
tương lai, nhưng cũng chính tương lai đó cũng mang nhiều lo âu khắc khoải.
Việc chuyển đổi giữa hai
cuộc cách mạng, được đóng dấu
bằng một cuộc gặp gỡ cực kỳ riêng tư mang hương vị của một cuộc xưng tội và làm
cũng cố thêm những lời đồn đại về một khả năng “chuyển hoá” của một ông lão
thời trẻ con đã được giáo dục bởi các vị linh mục dòng Tên (Gesuiti), đã diễn
ra sau khi Đức Giáo Hoàng Francesco đã cử hành thánh lễ ngay chính tại quảng trường Cách mạng, nơi mà tất cả mọi mâu thuẫn của thế
kỷ 20 đã đối đầu nhau, để rồi bây giờ cây Thánh giá với hình tượng Đức Chúa
đang “thay thế” chân dung của Querido Commander của thời quá khứ, Ernesto
Guevara. Không cần phải có những tuyên bố “đao to búa lớn”, Đức Giáo Hoàng Francesco, chỉ với hình
ảnh chân thực và uy quyền giáo chủ của chính mình, đã mang đến đây một điều gì
đó mà chính những người tiền nhiệm của ông đã đặt chân trước đây lên Cuba, Đức
Giáo Hoàng Ba Lan Karol và Đức Giáo Hoàng Đức Joseph cũng đã không làm được: đó là những trải nghiệm bản thân, trực tiếp,
mang tính nhân bản, của một “Latin” bị áp bức và hy vọng
được giải phóng,
nhưng không phải bằng nòng súng, ở phía nam châu lục Mỹ.
20/09/2015 - Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng Francesco trên Quảng trường Cách mạng ở Havana
Trong một sự
đảo ngược toàn bộ vị trí, hôm nay chính vị Đức Giáo Hoàng, vốn cũng được giáo dục bởi
các linh mục dòng Tên, mang một thông điệp có tính
cách mạng đến cho một quốc gia đang được lãnh đạo bởi những cựu
trò cũng của các linh mục dòng Tên như hai anh em nhà Castro. Và vị lãnh đạo cách mạng
huyền thoại, nhưng cũng rất mong manh yếu đuối, đang đại diện
cho tất cả những gì còn sót lại của một sự đề kháng bảo thủ ngày
càng yếu ớt. Tất cả mọi người, từ anh em nhà Castro đến Bergoglio, cũng như tất cả những người
Cuba, đều đang cố
gắng tìm cách “tái tạo” lại một
cuộc sống “cho ngày mai”, nhưng tất cả đều
có chung một cảm giác, một cảm giác không nói
thẳng ra được: nỗi lo sợ khắc khoải cho một tương lai của hòn đảo có thể sẽ là
một sự quay về bất hạnh với một quá khứ đê tiện nhất của lịch sử của đất nước
này.
Giáo hội Công
giáo Cuba, một tổ
chức
khiêm tốn, nằm bên lề của cơ chế, sống sót một cách lơ lửng trong
một nửa thế kỷ đầy trở ngại cấm đoán, với một “biên
chế” chỉ có 300 linh mục trong một đất nước có 12 triệu dân, bị cấm đoán bất kỳ
hoạt động tông đồ hay giáo dục nào, thậm chí còn bị cáo buộc là đồng loã hơn là
đối lập với chế độ độc tài Castro, nhưng hiện nay lại đang trở thành một tổ chức có thể có khả năng trở
thành một chọn lựa duy nhất còn lại, một con đê che chắn, nơi trú ẩn cho các
tầng lớp xã hội sẽ bị hất ra bên lề trước các cuộc tiến công tham lam và trả thù
của tư bản sau khi chế độ nhà nước sụp đỗ và sự trống trắng của đảng cộng sản
sau khi anh em nhà Castro ra đi vĩnh viễn.
Kể từ năm 1991 khi Cuba bị những tay múa rối Liên Xô
bỏ rơi tàn nhẫn khiến hòn đảo gần như bị huỷ diệt … cho đến sự kiện công nhận
lẫn nhau giữa Mỹ và Cuba hồi tháng 8 vừa qua, và chắc chắn sẽ không còn bị cấm
vận, những ai đã có dịp đến Cuba vào những tháng năm dài đó, thời của “buổi
hoàn hôn của giáo trưởng Cuba”, và bây giờ có dịp quay lại đây, đều cảm nhận
được rằng tất cả những người dân Cuba, xuyên qua những câu hỏi dò xét với những
“du khách”, đang có những lo âu, khắc khoải vốn đang bao trùm lên một dân tộc
đang sắp sửa “sang trang” tận gốc rễ. Một mặt là niềm hy vọng sự quay trở lại ồ ạt
của đám yankee, những người Mỹ vừa đáng yêu nhưng cũng vừa đáng ghét, sẽ mang
theo giàu có thịnh vượng, nhưng mặt kia là sự lo âu của những thành phần xã hội
thấp kém, những người chỉ biết sống vào đồng lương cố định hay vào phúc lợi xã
hội, những thành phần này sẽ rất có thể sẽ rơi vào những những cái hố nghèo
túng cùng cực, bị đẩy ra bên lề của quá trình “phát triển kinh tế” cũng như
chính những người Nga đã trải nghiệm khi họ bị đẩy lùi ra khỏi các “câu lạc bộ”
của các nhóm quyền thế khi Liên Xô tan rã.
Trong giai đoạn sắp tới khi mà hai anh em Castro sẽ
để lại một khoảng trống và sự tan hàng rã ngũ của cơ chế xã hội chủ nghĩa ở
Cuba, thì chỉ còn có Giáo hội công giáo là có khả năng đứng ra đóng vai trò
“mạng lưới an toàn” để cứu vớt những gia
đình và những trẻ em nghèo khó trong quá trình chuyển đổi sang trang “cuồng
bạo” giữa hai thời đại. Giáo xứ, trường học, các bệnh viện và trạm y tế của nhà
thờ, những tổ chức thiện nguyện vốn đến hôm nay vẫn còn bị đóng cửa hoặc thậm
chí bị cấm hoạt động sẽ trở thành những cái phao cứu rỗi họ, và không phải chỉ
cứu rỗi linh hồn. Trong khi Karol Wojtyla là người xem quyền tự do tôn giáo và chính trị như sao
chổi dẫn đường, trong khi Joseph Ratzinger là hậu vệ của sự trung thành với Đức
tin và tính chính thống của Giáo hội, thì Jorge Bergoglio, trước hàng vạn sanh
linh ở Cuba, là vị Đức Giáo Hoàng có đủ uy tín để lên tiếng chống đối lại sự
tham lam và cướp bóc của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa mà ngay chính ở Nam Mỹ
và vùng Caribe đã gây ra những thảm hoạ tàn bạo nhất.
Bergoglio kêu gọi “hòa giải hoà hợp”, cũng như chính
Hồng Y của Havana, Jaime Ortega Alamino, đã nhiều lần lặp đi lặp lại trước cộng
đồng của những người Cuba ở hải ngoại (Cuba kiều), mà ngày hôm qua, nhờ vào vào
các tuyến đường hàng không vừa mới được Obama cho phép mở, đã đến tham dự cùng
người thân và bạn bè tại Quảng trường Cách mạng.
Lý do mà Bergoglio đang lớn tiếng kêu gọi tha thứ lẫn
nhau, là vì Giáo hội lo sợ sẽ có thể nổ ra những màn trả thù, thanh toán những
món nợ ân oán, niềm hận thù đã ăn sâu vào các thế hệ trong gần 60 năm của “một
bức tường”, những năm đã “đông lạnh” Cuba, nhưng đồng thời cũng đã “bảo vệ”
Cuba trong cái vỏ cứng của nó.
Đây chính là một thông điệp hòa bình mang tính cách
mạng: bởi vì nó được xây dựng không những chỉ trên sự tự do tư tưởng và chính
trị, mà nó còn nói đến công bằng xã hội. Và chính đây là điều đặc biệt nhất của
chuyến công du của Bergoglio ở Cuba, và đồng thời cũng làm “áy náy” anh láng
giềng vĩ đại phía bắc vốn đang chờ đợi Đức Giáo Hoàng Francesco lên bục giảng
của Quốc hội Mỹ.
Đối với những ai xem bất kỳ những lời chỉ trích lên
án sự tham lam và xấc láo của “nền kinh tế tài chính” đều là những sản phẩm của
ý thức hệ toàn trị thì Đức Giáo Hoàng Francesco “rất là cộng sản”, nhưng trưa
ngày hôm qua, tại Quảng trường Cách mạng ở Havana bánh xe lịch sử đã chuyển
động. Do chính bàn tay của một người đàn ông không có được một tiểu đoàn lính
trong tay đẩy tới, nhưng chính bàn tay ấy đang làm run chuyển những “thượng đế”
và tạo hy vọng cho những người dân trần tục thấp cổ bé miệng.
Roma, 22/09/2015
Bài nhận định quá hay và đang giống như lời tiên tri cho việc gì sẽ phải đến. Càng đọc, Càng thấm thía việc kỳ diệu Thiên Chúa làm, nơi mỗi người một cách khác nhau. Đức Wojtyla, Đức Ratzinger và nay Đức Bergoglio. Chúng ta có quyền hy vọng sẽ thấy một ngày mai sáng sủa trên căn bản của tính nhân đạo mà ĐGH Phanxicô đang thực hiện. Cầu Chúa luôn ở với Ngài.
Trả lờiXóa