Lời giới thiệu: Nguyên tác bài này có tên “Quei due amici-nemici che si
contendono il mondo” của ký giả Vittorio Zucconi, đặc phái viên thường trú của
nhật báo “la Repubblica” ở Hoa Thịnh Đốn, đăng ngày 28/11/2013.
http://ricerca.repubblica.it/repubblica/archivio/repubblica/2013/11/28/usa-cina-mari-di-guerra.html?ref=search
http://ricerca.repubblica.it/repubblica/archivio/repubblica/2013/11/28/usa-cina-mari-di-guerra.html?ref=search
Nếu bài “L’ultima sfida tra le superpotenze”, đăng trên “la Repubblica”
cùng ngày, của ký giả Giampaolo Visetti, đặc phái viên thường trú ở Bắc Kinh,
phản ảnh góc nhìn từ Trung Quốc về quan hệ khó khăn giữa Mỹ và Trung Quốc, thì
bài này phản ảnh góc nhìn từ Mỹ cũng cùng trên một vấn đề.
*****
Nếu nhìn
theo lịch sử thì Mỹ và Trung Quốc là hai quốc gia hoàn toàn khác biệt nhau,
nhưng (hôm nay) lại ràng buộc với nhau bằng những quan hệ tài chánh bất khả
phân ly.
*****
Chung quanh 3 cái hòn đảo núi lửa vô dụng, trong cứ như mấy chỏm đá ngầm mọc chơ vơ ở biển Nam Hải, đang diễn ra một tấn kịch mới có khả năng chi phối tương lai của cả thế giới: cuộc đọ kiếm tay đôi để tranh giành ngôi vị bá chủ toàn cầu giữa một siêu cường của hôm qua và một siêu cường của ngày mai: Mỹ và Trung Quốc.
Thật ra thì cũng chẳng biết có bao nhiêu người để
tâm đến 3 cái mỏm đá chơ vơ này – thậm chí trước đây nó cũng chỉ là tài sản của
một cá nhân và được chính phủ Nhật mua lại – cộng với mấy cái quần đảo tí hon
Điếu Ngư, (tiếng Nhật là Senkaku), còn Trung Quốc thì gọi là Diaoyu và xem như
đó là lãnh thổ của Trung Quốc.
Ba cái mỏm đá chơ vơ giữa biển của quần đảo Điếu Ngư
Một cuộc song chiến từ xa, cực kỳ căng thẳng, giữa mấy cái pháo đài bay B52 của Mỹ bay trên
mấy hòn đảo này và chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh (Liaoning) của Trung Quốc
đang xã hết ga để đến vùng đảo. Có thể đấy chỉ là những dấu hiệu tượng trưng,
nhưng ở Châu Á tất cả những gì là tượng trưng đều là thực chất.
Kể từ khi xếp vào xó bếp những hào quang của chủ
nghĩa Mao và chọn con đường “phát triển chuyên chính” (development
dictatorship) bằng mọi giá về nhân lực với những hệ lụy về mặt xã hội, Trung
Quốc đã trở thành nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng cho Mỹ và cũng là chủ nợ lớn
nhất của Mỹ, thì lần lần cái phi lý trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ ngày
thêm rõ nét.
Với thặng dư thương mãi khổng lồ trong tay, Trung
Quốc không chỉ tài trợ cho nền kinh tế của Mỹ, mà còn đóng góp vào nền công
nghệ vũ khí, vào nền công nghệ đóng tàu chiến và xây dựng phi cơ quân sự để Hoa
Thịnh Đốn vẫn còn có khả năng phủ bóng của mình lên vùng Đông Nam Á. Nếu không
có khoảng tín dụng lên đến hàng nghìn tỉ mà Bắc Kinh đưa cho Mỹ để mua sản phẩm
“made in China” thì Ngũ Giác Đài cũng không có ngân sách để cho các B52 bay
trên các vùng đảo tranh chấp và điều
động 70 đơn vị tàu chiến của Đệ Thất Hạm đội trên vùng Thái Bình Dương.
Phía sau cái nghịch lý “vừa thù vừa bạn”, hai
partner khổng lồ này, nhân danh của hai ý thức hệ đối nghịch nhau, lại cùng hợp
lực với nhau để chia chác nền kinh tế tài chánh của thế giới, là một sự đối
địch mà cho đến nay chẳng có một cuộc họp thượng đỉnh nào, một tuyên bố chung
nào, một hiệp ước thương mãi nào hay bất cứ một cam kết mua trái phiếu của Bộ
tài chính Mỹ ... có thể giải quyết được.
Sau khi cách mạng Trung Quốc giành được độc lập và
thoát khỏi chế độ bảo hộ và thực dân của các thế lực Châu Âu, thì vào buổi sáng
sương mù giá lạnh của ngày 25/10/1950, 200 ngàn lính chính quy Trung Quốc đã
bất ngờ tấn công quân đội Mỹ và Nam Hàn vốn trước đó đã vượt qua vĩ tuyến 38 và
chiếm Bình Nhưỡng, thủ đô của Bắc Hàn. Các đơn vị Mỹ bị bại trận nặng nề phải
tháo chạy và phải hứng chịu một cuộc tàn sát thê thảm. Lần đó Bộ Tư lệnh tối
cao Mỹ cũng tính trả đủa bằng cách cho dội bom nguyên tử lên đầu lính Trung
Quốc. May mắn, và khôn khéo, Tổng thống Harry Truman đã có can đảm “hạ bệ” viên
tướng McArthur, và sau mấy năm trời đánh đấm đẫm máu và không ngã ngũ, cũng đã
phải chấp nhận một thỏa hiệp chia cắt Nam Bắc mà sau 60 năm vẫn còn tồn tại cho
đến hôm nay. Từ đó “chim ưng và rồng” tránh đụng trận trực diện hay đi gần đến
một cuộc chiến nguyên tử trong đó chắc chắn Liên Xô cũng sẽ phải nhảy vào bởi
vì cả Trung Quốc lẫn Bắc Hàn chẳng ai có bom hạt nhân. Tuy nhiên cũng phải đợi
đến những cuộc cách mạng và phản cách mạng văn hóa của Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc, và khi Mỹ xóa bỏ được cái não trạng “mối đe dọa da vàng” – vốn thừa kế từ
“mối đe dọa da đỏ” trước đó – thì Trung Quốc mới được nhìn nhận trên sân khấu ngoại
giao quốc tế và được kết nạp vào Liên Hiệp Quốc năm 1971. Tuy nhiên chỉ là một
sự nhìn nhận ngoại giao nhưng không dẫn đến một quan hệ hữu nghị: có quá nhiều
khác biệt sâu sắc về cội rễ, những rào cản giữa Đông và Tây trong hàng thế kỹ,
và có quá nhiều nghi ngờ lẫn nhau, thậm chí kỳ thị nhau, nhưng cũng không ai
dám nói ra sự thật.
Quan hệ giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh vẫn sẽ tiếp
tục chuyển dịch giữa ích lợi của một cuộc hôn nhân dựa trên lợi nhuận và kình
chống nhau trong việc tranh giành quyền kiểm soát Thái Bình Dương.
Thậm chí có lần xém chút nữa là chính phủ của
George W. Bush, dù là con của nhà ngoại giao Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc, George
Senior, phải hứng chịu một tai nạn ngoại giao
... gần như na ná với những gì đang diển ra quanh quần đảo Điếu Ngư. Đó
là vụ phi cơ do thám 4 động cơ do Ngũ Giác Đài phái bay đến vùng không phận của
Trung Quốc và đụng với một chiến đấu cơ của không quân Trung Quốc khiến phi cơ
Mỹ bị rơi và phi công bị thiệt mạng. Lần đó đúng là Mỹ khiêu khích Trung Quốc
mà Bush đã có hứa trước đó trong mùa tranh cử Tổng thống Mỹ .... để rồi cũng
chính Bush đã phải chịu nhục cuối đầu xin lỗi Trung Quốc (vì đã cho máy bay bay
vào không phận của Trung Quốc).
Cho tới chừng nào mà cả đôi bên còn có những ích
lợi đến từ một cuộc hôn nhân ... thì cái hôn nhân kỳ quặc này cũng sẽ tiếp tục
tránh phải đi đến ly dị với chén bát bay ào ào. Những sự kiện như năm 2001 hay
những gì đang xẩy ra hôm nay trên mấy quần đảo ở Biển Nam Hải ... sẽ vẫn chỉ là
những tình tiết nằm trong kịch bản của các vỡ tuồng hát bội kabuki (loại hình
sân khấu truyền thống của Nhật) do quân đội đạo diễn, trong đó hai diển viên
chánh vẫn tiếp tục trình diễn để làm vừa lòng ông khán giả chánh và quan trọng
nhất: Nhật Bản.
Nhưng về lâu về dài tình hình sẽ không tạo thuận
lợi cho Hoa Thịnh Đốn và Ngũ Giác Đài. Chi phí để duy trì cái “ô dù” không-hải
quân của Mỹ trên Thái Bình Dương, từ lính Mỹ vẫn còn đóng ở vĩ tuyến 38 ở Nam
Hàn cho đến các căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật, đang ngày ngày trở thành một gánh
nặng quá tải.
Dù chi phí quốc phòng của Trung Quốc trong những
năm gần đây tăng tưởng vùn vụt, và cho phép Trung Quốc đã có được chiếc hàng
không mẫu hạm đầu tiên đang trên hải trình tiến đến các quần đảo tranh chấp với
Nhật, nhưng cũng còn thua xa nếu so với chi phí của Mỹ vốn hiện nay vẫn còn ở
mức độ 600 tỉ đô-la mỗi năm dành cho Ngũ Giác Đài .... cao hơn rất nhiều so với
150 tỉ mà Trung Quốc dành cho quốc phòng.
Nhưng biểu đồ chi phí quân sự của Mỹ đang đi xuống
... trong khi biểu đồ của Trung Quốc lại đang đi lên, và nhất là “triều đình
Trung Hoa” đã kiên quyết rằng không thể tiếp tục vừa đóng vai “khổng lồ kinh
tế” vừa thủ vai “tí hon chính trị”, như một kiểu Đức của Á Châu. Ý tưởng này đã
ăn sâu vào đầu óc của giới lãnh đạo Trung Quốc và nhất là đã ngấm tận đáy cái
tinh thần ái quốc đang bùng nổ trong xã hội Trung Quốc.
Mỹ, mà cũng không phải chỉ có riêng Mỹ, thì vẫn
còn tin rằng quá trình phát triển chính trị và dân chủ của Đại Hán cũng sẽ thúc
đẩy phát triển công nghệ và kỹ thuật, từ đó các tham vọng bành trướng và chạy
đua chiến lược cũng sẽ dần dần tàn lụi.
Hôm 26/11/2013 Mỹ đã cho hai chiếc B52 "ngang nhiên" bay vào "vùng phòng không" do Trung Quốc vạch ra trước đó vài ngày.
Mấy chiếc pháo đài bay B52 của Dott. Stranamore
thực ra thì cũng đã lỗi thời, dù rằng cũng đã “vang bóng một thời” với những
thảm bom ở Đông Dương. Nhưng ở Châu Á, những gì là biểu tượng ... đều cũng là
thực chất. Phái mấy chiếc B52 đến vùng tranh chấp thì rõ ràng là một thách thức
nghiêm trọng ... và đầy nguy hiểm. Có lẽ Ngũ Giác Đài và mấy ông tướng diều hâu
vẫn còn mơ mộng trả lại mối thù xưa của tháng 10 năm 1950 (chiến tranh Đại
Hàn). Nhưng có lẽ mấy ông tướng này cũng nên nhớ lại câu nói bất hũ của một
người lính Á Châu với thượng cấp sau khi đã dám “chơi” Mỹ: “Tôi e rằng chúng ta
đã đánh thức tên khổng lồ đang ngủ”. (*)
Nhưng đánh thức rồng ... cũng không phải là điều
tốt.
Roma, 29/11/2013
VQ
(*) Lời của đô đốc Nhật Yamamoto nói với thượng cấp sau trận tấn công Trân
Châu Cảng (Pearl Harbor)